HỘI THÁNH VÀ CÔNG TÁC TƯ VẤN
The Church And Counseling
“Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng có thể có quá nhiều người đang rên siết!” - một mục sư trẻ đã nói như vậy sau vài năm rời trường. Hội Thánh của ông đang tăng trưởng và ông muốn đem lại sự linh hoạt vốn đang rất cần tại Hội Thánh của ông. Nhưng trong những ngày hầu việc Chúa của mình, thỉnh thoảng hằng đêm dường như ông đang mang nặng tâm trạng đó không dứt - nhiều người đang rên siết. Và mỗi lần như thế, ông lại nghĩ đến sự hướng dẫn và tư vấn.
“Trong trường, người ta chẳng bao giờ nói cho chúng tôi rằng có quá nhiều người đang đói khát” – ông lại tiếp tục: “Họ chẳng bao giờ cảnh báo cho chúng tôi biết rằng một mục sư có thể phải đối diện và giải quyết nhiều vấn đề, như việc bạn bè đánh nhau, sự loạn luân giữa cha và con gái, nỗi sợ hãi, tình trạng hổn loạn, nỗi ám ảnh muốn tự sát, bệnh đồng tính luyến ái, sự nghiện ngập rượu và ma túy, sự thất vọng, sự lo lắng, mặc cảm tội lỗi, những bất hòa trong gia đình, sự mất cân đối trong vấn đề ăn uống, bị stress kinh niên, cùng vô số các vấn đề khác nữa. Chúng tôi đã qua một khóa học về việc tư vấn, và chẳng bao giờ thắc mắc về hậu quả hay sự khác nhau của các vấn đề ấy, nhưng chúng tôi đã có thể đương đầu với chúng sau khi tốt nghiệp trường Kinh Thánh”.
Cách đây nhiều năm, Wayne Oates đã viết: “Đối với một mục sư, đừng bao giờ quan tâm đến việc mình được huấn luyện, vì hoặc sẽ không vui sướng cho mấy về đặc ân được tuyển chọn hoặc sẽ chẳng vui thích để tư vấn tín đồ của mình. Chắc chắn họ chỉ mang đến những vấn đề của mình cho mục sư, để được ông hướng dẫn và chăm sóc cách tốt nhất, khôn ngoan nhất. Một mục sư khi còn đang ở trong chức vụ, không thể tránh khỏi điều đó. Sự lựa chọn của một mục sư không phải chỉ là chọn giữa việc tư vấn hay không tư vấn, nhưng còn là sự chọn lựa sao cho việc tư vấn đi theo một cách có nguyên tắc và phương pháp tốt.”1
Thật không dễ dàng chút nào để công tác tư vấn theo một cách có nguyên tắc và phương pháp tốt, đặc biệt là khi các vấn đề quá khác nhau, các nhu cầu quá lớn, và những kỹ năng tư vấn thì lại quá đa dạng; vì thế thường gây cho người ta nhiều bối rối và mâu thuẫn.
Nói một cách chính xác, hiện nay có hàng ngàn phương pháp tư vấn đang được sử dụng. Những cuốn sách, các bài báo viết về liệu pháp tâm lý và con người – có tác dụng giúp đỡ rất lớn đối với những áp lực về sự lo âu, bối rối triền miên. Dường như có rất nhiều lý thuyết và phương pháp tiếp cận việc tư vấn, cũng như có rất nhiều nhà tư vấn chuyên nghiệp. Với tất cả các lời khuyên và hoạt động này, ngay cả với các nhà tư vấn chuyên nghiệp làm việc trọn thời gian cũng có thể cảm thấy tràn ngập điều này.
Điều đó có thể được khích lệ nếu như những lần xuất bản, các phần lý thuyết, và sự trợ giúp huấn luyện cho các nhà tư vấn - tất cả đều có mục đích giúp đỡ cho các nhà tư vấn làm việc ngày càng hiệu quả hơn. Nhưng một vài cuốn sách tư vấn và nhiều nhóm nghiên cứu lại đặt ra nhiều nghi ngờ về tính hợp lý của nó. Đó là mục đích chính, nhưng các học giả chân thật lại đề xuất “những phương pháp mới” đơn giản; những phương pháp này được công bố để hợp nhất Cơ Đốc Nhân, nhưng đôi khi chính các phương phá này lại đánh mất tính hiệu năng của chúng. Những cuốn sách gần đây đã gây thêm nhiều bối rối bởi sự chỉ trích của các nhà tư vấn chuyên nghiệp2, và các bài giảng đầy xúc động. Một vài nhà chuyên môn và một số bài giảng được loan tải trên kênh truyền hình quốc gia đã làm cho nhiều người bị sai lệch trong đức tin, khiến họ nghĩ sai về việc tư vấn - chẳng cần một sự tư vấn nào.
Cần phải thừa nhận rằng, đôi khi sự tư vấn không thực sự mang lại một sự giúp đỡ nào, nhưng không phải tất cả đều như vậy. Ngay cả các nhà tư vấn được huấn luyện kỹ càng và có nhiều kinh nghiệm đi nữa, họ vẫn phải nắm vững phong cách văn học chuyên nghành và ứng dụng những kỹ năng hiệu quả nhất, để tìm ra những người được tư vấn, đôi khi nhờ đó mà họ tự cải thiện mình. Trong những trường hợp như vậy, một số ít người lại gặp khó khăn về thành quả tư vấn mà mình đạt được. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy một vài người từ bỏ công việc, và nhận định rằng việc tư vấn thật sự mất nhiều thời gian.3
Tuy nhiên, nếu ai cũng bỏ cuộc như thế thì con người sẽ đi đâu cùng với những vấn đề của họ? Đức Chúa Jêsus là Đấng làm gương cho các Cơ Đốc Nhân, Ngài đã sử dụng hàng giờ đồng hồ để nói chuyện với nhiều hạng người, những người đang có nhu cầu, và Ngài có nhiều cuộc tiếp xúc mặt đối mặt với họ. Sứ đồ Phao-lô, người đã rất nhạy bén về nhu cầu của từng cá nhân đang rên siếc, ông đã viết – chúng ta là những người khỏe mạnh, chúng ta cần phải chia xẻ sự yếu đuối và san sẻ bớt gánh nặng cho những ai yếu đuối hơn4. Có thể Phao-lô đang viết về những người đang có sự hoài nghi, sợ hãi, có đời sống tội lỗi; nhưng sự quan tâm thông cảm của ông lại đi xa hơn thế nữa… ông quan tâm đến từng vấn đề của họ. Ngược lại, ngày hôm nay có thể những người giống như vậy đang phải đối diện với nhiều nhà tư vấn.
Các nhà viết Kinh Thánh không giới thiệu người giúp đỡ như là một sự lựa chọn nào đó. Nhưng nó là trách nhiệm cho mỗi Cơ Đốc Nhân, bao gồm cả vị lãnh đạo Hội Thánh5. Nhiều lúc việc tư vấn dường như có thể mất nhiều thời gian, nhưng đó lại là trách nhiệm mà Kinh Thánh truyền cho mỗi Cơ Đốc Nhân, và có thể đây là một phần rất cần thiết, rất quan trọng và có hiệu quả cho bất kỳ chức vụ nào.
Không nên khẳng định rằng tất cả các mục sư và các vị lãnh đạo Cơ Đốc đều nhận được ân tứ tư vấn và được kêu gọi trong trách nhiệm tư vấn6. Bởi vì, với những sự quan tâm, thái độ, các kỹ năng, sự huấn luyện, hoặc ơn kêu gọi của mình, một vài Cơ Đốc Nhân tránh né trách nhiệm tư vấn, thay vào đó họ lại thích dành thời gian và ân tứ của họ cho các chức vụ khác. Điều này là một quyết định đúng, đặc biệt là khi nó được quyết định dưới sự tham khảo ý kiến từ những người bạn Cơ Đốc khác.
Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta phải cẩn thận, không bỏ qua bất kỳ một phương cách Thánh Kinh căn bản hay quyến năng tiềm ẩn nào, không lờ đi việc gây dựng cách cá nhân đối với người khác dưới bất kỳ chức vụ nào. Thật không dễ gì để tư vấn, nhưng bằng chứng lại quá hiển nhiên và đang phát triển - với nhiều nền tảng khác nhau, con người có thể học nhiều kỹ năng tư vấn có hiệu quả khác nhau7. Đức Chúa Trời có thể sử dụng bạn như là một người tư vấn !
SỰ CHĂM SÓC VÀ TƯ VẤN
Những nổ lực tư vấn nhằm đem lại sự khích lệ và hướng dẫn những người đang phải đối diện với những quyết định mang nhiều mất mác, hoặc thất vọng trong cuộc sống. Việc tư vấn có thể kích thích sự trưởng thành và phát triển nhiều tính cách. Có thể giúp người ta đương đầu một cách hiệu quả hơn với các nan đề trong cuộc sống, với những mâu thuẩn nội tâm, và với những thương tổn về tình cảm. Trợ giúp nhiều cá nhân hay các thành viên trong gia đình, giúp những cặp vợ chồng giải quyết những căng thẳng về tinh thần, hoặc hàn gắn đổ vỡ. Gắn kết người này với người kia lại với nhau một cách hiệu quả hơn, và trợ giúp cho một số người đang ở trong tình trạng thất bại và không hạnh phúc, có được những kiểu mẫu cho cuộc sống. Người tư vấn Cơ Đốc cố gắng tìm cách để giúp người khác bước vào mối liên hệ cá nhân với Đức Chúa Jêsus-Christ và giúp cho họ nhận được sự tha thứ và an ủi từ những mặc cảm tổn thương do tội lỗi và lỗi lầm của họ gây ra. Nói tóm lại, Cơ Đốc Nhân luôn hy vọng để giúp đỡ người khác trở nên môn đồ của Đấng Christ và môn đồ hóa người khác.
Quan tâm mục vụ. Một vài người đã kinh nghiệm được điều này và nhận ra sự khác biệt giữa sự quan tâm mục vụ, sự tư vấn mục vụ, và liệu pháp tâm lý mục vụ. Trong ba thuật ngữ vừa nói, sự quan tâm mục vụ là rộng nhất. Quan tâm mục vụ ám chỉ đến các mục vụ tổng quát của Hội Thánh về sự chữa lành, sự duy trì, sự hướng dẫn, và sự phục hòa giữa con người với Đức Chúa Trời và giữa con người với nhau8. Thỉnh thoảng sự quan tâm mục vụ còn được gọi là “sự quan tâm những linh hồn”, gồm có mục vụ về truyền giảng, dạy dỗ, kỷ luật, thi hành các thánh lễ, dưỡng dục tín hữu, và chăm sóc tín hữu trong lúc có cần. Từ thời của Đấng Christ, Hội Thánh đã kết ước với sự quan tâm mục vụ.
Tư vấn mục vụ.
Điều này là một phần đặc biệt hơn của sự quan tâm mục vụ, liên quan đến việc giúp đỡ nhiều người, các gia đình, hoặc nhiều nhóm người khi họ đối diện với nhiều áp lực và khủng hoảng trong cuộc sống. Tư vấn mục vụ sử dụng sự khác nhau về các phương pháp chữa lành thích hợp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh, để giúp con người giải quyết những vấn đề bằng nhiều cách khác nhau. Mục đích cuối cùng là nhằm giúp những người được tư vấn kinh nghiệm về sự chữa lành, tìm tòi học hỏi, và có sự trưởng thành thuộc linh cách cá nhân.
Khi sự tư vấn mục vụ được định nghĩa theo truyền thống, thì mục vụ tư vấn là công việc của vị mục sư đã được phong chức. Nói theo sự dạy dỗ của Thánh Kinh thì tất cả các tín hữu đều phải mang lấy những gánh nặng cho nhau,9 mục vụ tư vấn có thể và nên là một chcs vụ của những Cơ Đốc Nhân sốt sắng và có tinh thần chăm sóc; dù thế nào đi nữa thì những Cơ Đốc Nhân này đều được phong chức như là các giáo sĩ. Trong các trang tiếp theo, độc giả sẽ thấy tư vấn mục vụ và tư vấn Cơ Đốc có thể được sử dụng trao đổi thay thế cho nhau.
Liệu pháp tâm lý mục vụ.
Đây là một thuật ngữ dài, trong chiều sâu của quá trình giúp đỡ, những nổ lực nhằm mang lại các sự thay đổi đặt nền tảng trên tính cách của người được tư vấn, trên những giá trị thuộc linh, và cách suy nghĩ. Đây là một hình thức đem lại sự giúp đỡ để tìm cách di dời những rào cản thường có trong quá khứ, làm kềm hãm sự trưởng thành thuộc linh cá nhân. Đây cũng là công việc của một nhà chuyên môn đã được huấn luyện, và rất hiếm khi liệu pháp tâm lý mục vụ được nhắc đến trong cuốn sách này.10
ĐIỀU GÌ KHIẾN SỰ TƯ VẤN CƠ ĐỐC HIỆP NHẤT?
Cách đây vài năm, tôi hướng dẫn một buổi hội thảo cho lớp huấn luyện các mục sư tuyên úy, là những người đã thách thức ý tưởng - tư vấn Cơ Đốc là hiệp nhất. “Không có một Cơ Đốc Nhân nào phân biệt được sự tư vấn”, một trong những học viên của lớp đã đưa ra ý kiến. “Không có hình thức Cơ Đốc nào là hiệp nhất về chuyên môn phẫu thuật, các quy trình tự động Cơ Đốc, hoặc sự nung nấu Cơ Đốc nào, và không có cả tư vấn Cơ Đốc.”
Ngày nay, các nhà tư vấn Cơ Đốc và những người không tin cũng đều sử dụng nhiều kỹ năng đã được phát triển, nhưng tư vấn Cơ Đốc có ít nhất bốn sự khác biệt.11
Những giả định hiệp nhất.
Không một lời tư vấn nào có giá trị độc lập hoặc trung lập một cách hoàn toàn trong các thuật ngữ của những sự giả định. Mỗi chúng ta nên đem lại cho chính mình những quan điểm riêng trong tình trạng đang được tư vấn và chúng ảnh hưởng đến sự nhận xét và bình luận của chúng ta cho dù chúng ta có nhận ra hay không.
Chẳng hạn, nhà phân tâm học Erich Fromm có lần đã khẳng định rằng, tất cả chúng ta đang sống “trong một vũ trụ hoàn toàn bàng quan về số phận của chúng ta”. Một quan điểm như thế có thể không phủ nhận một điều nào đó đối với niềm tin nơi Đức Chúa Trời nhơn từ và tối cao. Có lẽ cũng không còn chỗ cho sự cầu nguyện, cho sự suy gẫm về “Lời Đức Chúa Trời”, về kinh nghiệm ơn tha thứ, hoặc sự trông cậy về đời sau. Những sự giả định của Fromm tất nhiên phải có ảnh hưởng đến các phương pháp huấn luyện của ông.
Mặc dầu có nhiều sự thay đổi về lý thuyết, nhưng hầu hết chính những nhà tư vấn đều kêu gọi Cơ Đốc Nhân có (hoặc nên có) niềm tin về các thuộc tánh của Đức Chúa Trời, về bản tánh của con người, về quyền năng của Kinh Thánh, hậu quả của tội lỗi, sự tha thứ của Đức Chúa Trời, và niềm hy vọng về tương lai. Chẳng hạn như khi đọc đến bốn câu đầu của sách Hê-bơ-rơ, ta sẽ thấy được điều này. Phải chăng cuộc sống và sự tư vấn của chúng ta sẽ không khác đi nếu như chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời bởi Con Ngài đã phán dạy về dòng giống con người và vũ trụ là do Ngài sáng tạo, đối với tội lỗi Ngài đem lại sự tha thứ, và bằng mệnh lệnh của mình, Ngài quản trị tất cả bởi quyền năng tuyệt đối của Ngài?
Các mục đích thống nhất.
Cũng như các bạn bè của chúng ta, Cơ Đốc Nhân tìm kiếm sự giúp đỡ hầu mang lại những thay đổi về cách cư xử, thái độ, nhận chân giá trị, hoặc thay đổi cả về quan niệm sống cho những người được tư vấn. Chúng ta cố gắng để truyền đạt những kỹ năng, bao gồm những kỹ năng về xã hội để kích hoạt nhận thức và sự biểu lộ cảm xúc nơi người khác, hầu đem lại sự ủng hộ trong những lúc có cần, để giáo dục về trách nhiệm, làm thấm nhuần sự khôn ngoan thông sáng, và để hướng dẫn họ khi quyết định việc gì. Việc giúp đỡ những người được tư vấn là nhằm kích hoạt những khả năng ẩn tàng bên trong đối với môi trường sống trong những lúc khủng hoảng; để dạy dỗ về những kỹ năng giải quyết vấn đề, thúc đẩy khả năng và tính độc lập của người được tư vấn và “sự tự thực tế.” 13
Không dừng ở đó, Cơ Đốc Nhân còn đi xa hơn khi tìm kiếm sự kích thích để phát triển tâm linh cho những người được tư vấn. Khuyến khích sự xưng tội và kinh nghiệm về sự tha thứ thánh, làm mới lại những tiêu chuẩn, thái độ, giá trị, và nếp sống Cơ Đốc, giới thiệu sứ điệp Phúc-Âm, khuyến khích những người được tư vấn gắn bó đời sống của họ với Đức Chúa Jêsus-Christ; đồng thời kích thích những người được tư vấn phát triển các giá trị và sự linh hoạt của cuộc sống mà chúng phải được đặt nền tảng trên sự dạy dỗ của Thánh Kinh, thay vì sống phụ thuộc vào những tiêu chuẩn ủng hộ chủ nghĩa nhân văn tương đối.
Một vài người sẽ chỉ trích điều này như là “việc đem lại sự tư vấn cho tôn giáo”. Tuy nhiên, để bỏ qua những chủ đề về học thuyết, sự tư vấn của chúng ta cần phải được xây dựng trên nền tảng tôn giáo; vì quan niệm tự nhiên là ủng hộ chủ nghĩa nhân văn, làm ngột ngạt niềm tin cá nhân, và phân chia cuộc sống của chúng ta thành nhiều phần vừa mang tính thiêng liêng vừa có tính thế tục. Không một người tư vấn nào, hoặc một Cơ Đốc Nhân nào - cho dù không phải là Cơ Đốc Nhân sốt sắng - lại ép buộc những người được tư vấn đối với niềm tin của họ. Chúng ta có một nguyên tắc là phải đối đãi với người khác bằng sự kính trọng và đem lại sự tự do để họ tự quyết định. Nhưng những người-giúp đỡ thành thật và đáng tin cậy sẽ không làm ngột ngạt niềm tin của họ và không giả vờ một điều gì đó mà thật ra thì không phải như vậy.
Các phương pháp thống nhất.
Tất cả các kỹ thuật tư vấn có ít nhất bốn đặc điểm. Chúng khơi gợi niềm tin trong một chừng mực có thể, chỉnh sửa các niềm tin sai lầm về thế gian, phát triển những khả năng trong đời sống xã hội, và giúp đỡ những người được tư vấn chấp nhận chính họ như là những người có giá trị. Để đạt được các mục tiêu này, những kỹ thuật căn bản như thế phải được người tư vấn sử dụng cách nhất quán; chẳng hạn như phải biết lắng nghe, biết thể hiện sự quan tâm, phải cố gắng hiểu, và ít nhất đôi khi cũng đem lại một sự chỉ dẫn nào đó. Cả các Cơ Đốc Nhân lẫn những người tư vấn không phải là Cơ Đốc Nhân đều sử dụng nhiều phương pháp hổ trợ giống nhau.
Tuy nhiên, Cơ Đốc Nhân không bao giờ sử dụng các kỹ thuật tư vấn có thể bị đánh giá là sai trái về mặt đạo đức, hoặc không nhất quán với sự dạy dỗ trong Thánh Kinh. Chẳng hạn, việc khuyến khích người ta chấp nhận về vấn đề ngoại tình hoặc có quan hệ tình dục trước hôn nhân, việc sử dụng ngôn ngữ có tính lăng mạ, việc không quan tâm đến cách thức áp dụng của họ mà theo chỉ dẫn của những bác sĩ chuyên khoa về phép chữa bệnh thế tục, hoặc hối thúc những người được tư vấn phát triển các giá trị trái với Kinh Thánh mà lẽ ra tất cả những điều đó cần phải tránh nói đến.
Một số những kỹ thuật khác mà Cơ Đốc Nhân rất dễ phân biệt và có thể áp dụng trong việc tư vấn Cơ Đốc theo từng mức độ. Bao gồm sự cầu nguyện trong phiên họp bàn về công tác tư vấn,14 việc đọc Kinh Thánh, sự đối đầu hòa nhã về các lẽ thật Cơ Đốc, hoặc việc khuyến khích những người được tư vấn trở nên gắn bó với một nhà thờ địa phương nào đó, là những ví dụ điển hình.
Các đặc điểm người tư vấn thống nhất.
Tùy theo từng trường hợp tư vấn, người tư vấn cần phải tự đặt cho mình ít nhất bốn câu hỏi: Vấn đề ở đây là gì? Tôi có nên xen vào giữa và tìm cách giúp đỡ không? Tôi có thể làm gì để giúp đỡ? Phải chăng cần một người khác có khả năng tốt hơn để giúp đỡ chăng? 15 Tất nhiên điều này rất quan trọng đối với những tư vấn Cơ Đốc, vì nhờ đó họ có được sự hiểu biết tường tận cho từng vấn đề (nan đề phát sinh như thế nào, và chúng có thể được giải quyết ra sao); đồng thời có một nền tảng kiến thức về sự dạy dỗ của Kinh Thánh cho các vấn đề, và nắm bắt một cách rõ ràng về những kỹ năng tư vấn.
Tuy nhiên, có đủ bằng chứng cho thấy rằng những đặc điểm cá nhân của người tư vấn có ý nghĩa lớn lao hơn trong quá trình tư vấn. Sau khi viết một cuốn sách chuyên sâu về các học thuyết về sự tư vấn, nhà tâm lý học C. H. Patterson đã kết luận rằng người tư vấn hiệu quả phải là “một con người có thật,” là người biết hy sinh “mối quan hệ con người thành thật” với những người được tư vấn. “Đó là một mối quan hệ có đặc điểm không mang quá nhiều những kỹ thuật mà một bác sĩ chuyên khoa sử dụng như bởi cái mà bác sĩ có, cũng không mang quá nhiều những điều mà bác sĩ làm theo như cách mà bác sĩ thực hiện nó.” 16
Cách đây vài năm, một số những công trình nghiên cứu đã đưa ra những phương pháp tư vấn mang lại hiệu quả nhất khi chúng được những người tư vấn sử dụng, họ là những người có phẩm tính đặc biệt về sự trìu mến, nhạy bén, hiểu biết, có sự quan tâm thành thật, và luôn sẵn lòng để đối đầu với người khác trong một thái độ đầy tình yêu thương. Những cuốn sách giáo khoa về việc tư vấn đôi khi tạo ra áp lực về tầm quan trọng của những phẩm chất mà người tư vấn phải có, như là sự đáng tin cậy, có sức khỏe và tâm lý tốt, trung thực, kiên nhẫn, có khả năng, và sự hiểu biết đầy đủ. 17 Dựa trên những nghiên cứu gần đây cho thấy, những người giúp đỡ có hiệu quả nhất khi họ có được những đặc điểm này của người tư vấn, cùng với kiến thức về các vấn đề liên quan đến con người và những kỹ năng tư vấn tốt. 18 Jay Adams cho rằng, những dự định tốt nhất không phải là sự thay thế cho kiến thức và những kỹ năng. 19
Lẽ tất nhiên, Đức Chúa Jêsus-Christ là kiểu mẫu tốt nhất cho chúng ta có được một “nhà tư vấn tuyệt vời” và thật hiệu quả, Ngài là người có tính cách, kiến thức, và những kỹ năng có thể khiến cho người tư vấn giúp đỡ một cách hiệu quả hơn đối với những người cần được giúp đỡ. Trong nổ lực để phân tích sự tư vấn của Chúa Jêsus, chúng ta phải nhận thức rằng mỗi chúng ta có thể có một hướng đi, cho dù không có ý thức hay có chủ tâm đi chăng nữa, việc chú tâm nhìn xem công việc của Đấng Christ cũng là một cách để củng cố những việc làm của chúng ta, về việc người ta cần được giúp đỡ như thế nào. Đối với người tư vấn đối đầu cách trực tiếp, họ nhận ra rằng đôi khi Chúa Jêsus cũng phải đối đầu theo cách như vậy; với người tư vấn mà “khách hàng là trung tâm”, thì không trực tiếp thấy được sự đồng nhất về thành quả đạt được trong những trường hợp khác đối với sự giúp đỡ của Đấng Christ. Chắc chắn là chính xác để khẳng định rằng Chúa Jêsus đã sử dụng nhiều kỹ thuật tư vấn khác nhau tùy thuộc vào từng tình huống, tùy theo bản tính của người được tư vấn, và tùy thuộc từng vấn đề cụ thể. Đôi khi người tư vấn lắng nghe người khác trình bày một cách cẩn thận mà không đưa ra bất kỳ sự hướng dẫn rõ ràng nào, nhưng trong những trường hợp khác thì người tư vấn lại dạy dỗ một cách dứt khoát. Người tư vấn vừa khuyến khích và ủng hộ, bên cạnh đó người tư vấn cũng vừa đối đầu và thách thức. Như vậy, người tư vấn vừa phải biết chấp nhận những con người lầm lỗi và thiếu sót, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi sự ăn năn, sự vâng lời, và cần phải hành động.
Tuy nhiên, nền tảng cho đặc điểm nổi bật của Chúa Jêsus trong việc giúp đỡ người khác chính là tính cách của Ngài. Trong sự dạy dỗ, chăm sóc và tư vấn, những đặc điểm, thái độ, và giá trị này của Ngài luôn thể hiện – để khiến mọi việc Ngài làm thật sự có hiệu quả – Ngài giúp đỡ người khác và Ngài phục vụ người khác – Ngài đã nêu gương cho chúng ta noi theo. Đức Chúa Jêsus – Ngài là Đấng chân thật, đầy lòng thương xót; sự cảm thông của Ngài thật là lớn, và Ngài đầy sự trưởng thành thuộc linh. Ngài đã hứa sẽ phục vụ Cha Ngài trên trời và những người theo Ngài trên đất (theo thứ tự công việc mà Cha Ngài phán dặn). Ngài cũng chuẩn bị chính mình cho công việc của Ngài với nhiều giai đoạn về sự cầu nguyện và sự suy ngẫm thường xuyên. Ngài biết rất rõ về Kinh Thánh. Ngài thấu hiểu những người thiếu thốn đang cần Ngài giúp đỡ, vì thế họ có thể tìm thấy được sự bình an, hy vọng và sự an toàn tuyệt đối từ nơi Ngài. 20
Chúa Jêsus thường giúp đỡ dân chúng qua các bài giảng, nhưng có lúc Ngài cũng tranh luận với những người hoài nghi, thách thức trực tiếp với nhiều người, chữa lành nhiều người đau ốm bệnh tật, gần gũi chuyện trò với những người thiếu thốn hay những ai đang có nhu cầu; Ngài khích lệ, nâng đỡ những người ngã lòng, và Ngài đã làm gương sáng cho mọi người – đó là điểm nổi bật về đời sống thiêng liêng thiên thượng. Trong những cuộc tiếp xúc của Ngài với dân chúng, Chúa đã chia sẻ nhiều thí dụ từ các tình huống của đời sống thực tế hàng ngày, và Ngài không ngừng khích lệ người khác, để giúp họ nghĩ và hành động phù hợp với những nguyên tắc của Thánh Kinh. Rõ ràng là Ngài đã tin rằng một số người cần có một người giúp đỡ hiểu biết, biết lắng nghe, biết an ủi, và biết thảo luận với họ trước khi họ có thể học hỏi điều gì đó từ sự đối đầu với thách thức, để đem lại những lời khuyên lơn, hoặc sự dạy dỗ tổng quát.
Dựa trên Thánh Kinh, những Cơ Đốc Nhân được dạy dỗ về tất cả mọi điều mà Đấng Christ truyền lại và dạy dỗ trong Kinh Thánh. 21 Tất nhiên điều này bao gồm cả những lời giáo huấn của Đức Chúa Trời về quyền năng, về sự cứu rỗi, về sự tăng trưởng thuộc linh, về sự cầu nguyện, về Hội Thánh, về tương lai, về các thiên sứ, ma quỷ, và về con người. Thế nhưng Chúa Jêsus cũng đã dạy dỗ về hôn nhân gia đình, về những ảnh hưởng giữa bố mẹ và con cái, về sự vâng lời, về những mối quan hệ huyết thống, và về sự tự do dành cho giới nữ và đối với nam giới. Ngài cũng đã dạy dỗ nhiều điều mang tính cá nhân khác, chẳng hạn như, Ngài dạy dỗ về giới tính, về sự lo lắng, sự sợ hãi, nỗi cô đơn, sự nghi ngờ, tính tự cao, về tội lỗi, và về sự thất vọng.
Nhờ tất cả những chủ đề trên mà người ta có thể cung cấp những kỹ năng cần thiết cho những nhà tư vấn ngày nay. Khi Chúa Jêsus giúp giải quyết những nan đề này cho dân chúng, Ngài luôn biết lắng nghe những ưu tư của họ và Ngài trả lời cho họ trước khi giúp họ nghĩ hoặc hành động một cách khác nhau. Thỉnh thoảng Ngài kể cho dân chúng nghe về điều mà Ngài làm, nhưng đôi khi Ngài cũng sử dụng nhiều câu hỏi gợi ý sâu sắc mang tính thiêng liêng để giúp nhiều người tự giải quyết các vấn đề riêng của họ. Thô-ma, người đã được giúp đỡ cho sự nghi ngờ của ông, khi Chúa Jêsus chỉ cho ông thấy bằng chứng sống khi Ngài đã sống lại; có lẽ Phi-e-rơ là người đã học hỏi được nhiều nhất từ sự phản chiếu (với Chúa Jêsus) về những lỗi lầm của ông trong quá khứ, Ma-ri ở Bê-tha-ni cũng đã học biết lắng nghe, và Giu-đa cũng đã học được nhiều điều từ kinh nghiệm đau thương của ông.
Tất cả những sự dạy dỗ của Chúa Jêsus bao gồm sự dạy dỗ trong các lời giáo huấn, nhưng đồng thời cũng liên quan đến việc giúp đỡ người khác gần gũi hơn với Đức Chúa Trời, với người chung quanh, và với chính họ. Tất cả những sự dạy dỗ này hầu như mọi người đều quan tâm. Một vài người học hỏi từ những bài thuyết giảng, những sứ điệp, hoặc qua những cuốn sách; một số những người khác thì học hỏi từ sự nghiên cứu Kinh Thánh cách cá nhân, hoặc từ những cuộc thảo luận; một số người khác thì học hỏi từ sự tư vấn chính thức hay không chính thức; và có lẽ hầu như tất cả chúng ta đã và đang học được nhiều điều từ một vài sự liên kết của tất cả những cách trên.
Điểm cốt lõi của tất cả những sự giúp đỡ mang tính Cơ Đốc, hoặc chung hoặc riêng tư, đều xuất phát từ sự ảnh hưởng của Đức Thánh-Linh. Sự hiện hữu và ảnh hưởng của Thánh-Linh làm cho sự tư vấn Cơ Đốc thật sự thống nhất. Ngài chính là Đấng giúp cho những đặc điểm của người tư vấn có hiệu quả nhất, như về tình yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, và tiết độ. 22 Ngài là Đấng Yên-ủi hoặc Giúp-đỡ, là Đấng dạy dỗ “mọi sự”, nhắc lại cho chúng ta nhớ mọi điều Đấng Christ đã phán dạy, là Đấng cáo trách tội lỗi, và dẫn đưa chúng ta vào mọi lẽ thật của Ngài. 23 Qua sự cầu nguyện, sự suy gẫm Kinh Thánh, qua sự xưng tội thường xuyên, và sự cam kết rõ ràng mỗi ngày với Đấng Christ, vị thầy-tư vấn trở nên một công cụ hữu ích cho công việc của Đức Thánh-Linh – Ngài yên ủi, giúp đỡ, dạy dỗ, cáo trách, hoặc hướng dẫn chúng ta. Điều này phải nên là mục đích cho mỗi người tin Chúa – Mục sư hoặc người không chuyên nghiệp, giáo sư tư vấn hoặc người tư vấn chưa có kinh nghiệm – đều được Đức Thánh-Linh sử dụng – chính Ngài là Đấng đụng đến mỗi đời sống chúng ta và làm thay đổi nó, và Ngài giúp chúng ta đạt đến tuổi trưởng thành về tâm linh cũng như về tâm lý. 24
HỘI THÁNH NHƯ LÀ MỘT CỘNG ĐỒNG CHỮA LÀNH
Như chúng ta đã thấy, Chúa Jêsus thường nói chuyện với nhiều người về những nhu cầu riêng của họ và Ngài thường xuyên gặp gỡ nhiều nhóm nhỏ. Ngài là Đấng chủ trì giữa họ, và trong từng nhóm môn đồ nhỏ, Ngài đã chuẩn bị để họ sẽ “tiếp quản” công việc sau khi Ngài thăng thiên. Đó là điều mà Ngài đã phán trong khi Ngài dạy dỗ dân chúng trên đất, và Chúa Jêsus cũng đã phán với các môn đồ trong lần đầu tiên Ngài nhắc đến Hội Thánh. 25
Trải qua nhiều năm, điều này đã giúp cho Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus-Christ vẫn tiếp tục sứ mệnh của Ngài trong việc dạy dỗ, rao giảng, chăm sóc, và tư vấn. Đây là những công việc không thể thấy được – chúng như là trách nhiệm đặc biệt của những người lãnh đạo Hội Thánh “rất nổi tiếng”; họ đã hoàn tất công việc nhờ có những người tin Chúa bình thường cùng cộng tác làm việc, cùng chia sẻ, cùng chăm sóc lẫn nhau và cho cả những người chưa tin bên ngoài Hội Thánh nữa. Nếu như chúng ta đọc sách Công-vụ các Sứ-đồ 26 và các sách thư tín, thì rõ ràng rằng Hội Thánh trở nên một Hội nên Thánh không những chỉ vì họ là một cộng đồng truyền giáo, dạy dỗ, kỷ luật – mà còn là một cộng đồng chữa lành nữa.
Những cộng đồng chữa lành là những nhóm người “mang đặc điểm là có sự cam kết gắn bó trong nhóm và có cùng một sự quan tâm chung về sự chữa lành . . . những bệnh tật về tâm lý, cách cư xử, hoặc về tâm linh.” 27 Trong những năm gần đây, khi nghiên cứu những nhóm bệnh nhân được điều trị, những giáo sư chuyên môn về khoa thần kinh đã phát hiện thấy giá trị của việc chữa bệnh lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm bằng cách đem lại sự ủng hộ, tạo ra thách thức, sự hướng dẫn, và sự khuyến khích; nói cách khác, cách chữa trị như thế dường như không mang lại hiệu quả. Dĩ nhiên những nhóm như thế có thể bị hãm hại, đặc biệt là khi họ trở nên những nhóm người không quản trị được, và họ tìm kiếm nhiều cách để chỉ trích và làm cho những người tham dự lúng túng thay vì gây dựng họ, hoặc thách thức họ trong sự cởi mở và biết cách cư xử có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu như họ được dạy dỗ bởi một người lãnh đạo nhạy bén, thì những nhóm người như thế có thể rất có hiệu quả trong kinh nghiệm chữa trị bệnh cho tất cả những người có liên quan.
Những nhóm người được chữa trị như thế không nhất thiết giới hạn trong các cuộc gặp gỡ giữa những người được tư vấn với một tư vấn được huấn luyện trước. Các gia đình, các nhóm nghiên cứu, những bạn bè tin cậy nhau, những giáo sư đồng nghiệp, các nhóm công nhân, và những nhóm nhỏ khác thường đem lại sự giúp đỡ rất cần thiết trong những lúc khủng hoảng hay khi người ta phải đối diện với những thách thức hàng ngày trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong tất cả mọi xã hội, Hội Thánh luôn có tiềm năng lớn lao đối với một cộng đồng chữa lành-được chữa trị. 28 Sự hiện diện của người tin Chúa trong Hội Thánh địa phương có thể đem lại một ý thức lệ thuộc vào những thành viên khác,29 nâng đỡ những người yếu đuối, chữa lành cho những người gặp thử thách, và hướng dẫn nhiều người có thể quyết định đúng và giúp họ hướng đến tuổi trưởng thành.
Thật đáng buồn nếu như các Hội Thánh ngày nay dường như ít hơn những nhóm người không có trong danh sách, đó là những người cứng cõi, họ không bao giờ chấp nhận mình có nhu cầu hoặc có vấn đề gì cả, họ là những người chỉ tham dự vào những công việc tầm thường bên ngoài theo thói quen, và họ bỏ qua hầu như tất cả các công việc nặng nhọc mà một Mục sư phải chịu đựng. Một hình ảnh như thế có thể được phóng đại, nhưng đối với nhiều người thì Hội Thánh địa phương không có một ý nghĩa quan trọng nào, và cũng chẳng có giúp ích gì nhiều cho họ; và xa hơn nữa từ động lực phát triển-cung cấp mối thông công mà Đấng Christ đã dự định.
Tại sao Hội Thánh lại được bắt đầu như thế? Chắc chắn câu trả lời nằm trong những lời phán cuối cùng của Chúa Jêsus dành cho những người theo Ngài trước khi Ngài quay trở lại thiên đàng: “Hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhơn danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh-Linh mà làm phép báp-têm cho họ; và dạy họ giữ hết cả mọi đều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.” 30
Hội Thánh đã được gây dựng để hoàn tất đại mạng lệnh – khiến muôn dân trở nên môn đồ của Chúa (điều này bao gồm sự truyền giáo), và dạy dỗ họ. Những người tin Chúa đầu tiên đã tập hợp lại trong sự thông công hoặc koinonia liên quan đến một mối quan hệ cộng đồng, một sự cộng tác đã đẩy mạnh hoạt động đối với Phúc-Âm. Những người tin Chúa đã được gây dựng bởi sự chia sẻ lẫn nhau về sự khôn sáng, từng trải, sự thờ phượng, nhu cầu, và sở hữu vật chất. 31 Hội Thánh thật là Hội Thánh mà Đức Chúa Jêsus-Christ luôn là đầu Hội Thánh. Ngài là Đấng chỉ cho chúng ta thấy được làm thế nào để rao truyền và dạy dỗ, là Đấng mà bởi sự sống và sự dạy dỗ của Ngài chỉ cho chúng ta nhiều thực tiễn cũng như nhiều nền tảng Cơ Đốc, và Ngài là Đấng đã tóm lược sự dạy dỗ của Ngài trong hai điều: hãy yêu Đức Chúa Trời và yêu người khác.
Tất cả điều này có ý nghĩa thay thế cho những hạn chế của một nhóm những người tin Chúa, mỗi một tín đồ được ban cho một số ân tứ và khả năng cần thiết để gây dựng Hội Thánh. Như trong cùng một nhóm, họ được hướng dẫn bởi một Mục sư và những người lãnh đạo được lựa chọn khác, các tín đồ trực tiếp trình dâng những hoạt động và dự định của họ lên Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng, thậm chí qua việc truyền giáo, trong sự dạy dỗ, thông công, và sự chịu đựng mọi gánh nặng. 32 Khi một trong những điều này mất đi thì nhóm này sẽ không được cân bằng và các tín đồ sẽ không được trọn vẹn.
Các chương còn lại của cuốn sách này được viết nhằm hổ trợ cho những người tư vấn, các Mục sư, những người lãnh đạo Hội Thánh, các sinh viên, và cho tất cả các Cơ Đốc Nhân khác trong một lĩnh vực quan trọng nào đó đối với công việc của Hội Thánh: chịu đựng gánh nặng. 33 Những chủ đề được thảo luận với những vấn đề phổ biến nhất, đối diện với những Cơ Đốc Nhân và những người không tin Chúa: các vấn đề ấy liên quan đến sự thờ phượng, sự truyền giáo, dạy dỗ, thông công, sự phát triển, các mối quan hệ có ý nghĩa, sự trưởng thành của mỗi cá nhân, và niềm vui cá nhân. Đối với từng chủ đề, chúng ta sẽ xem xét những nguyên nhân nào đã gây ra các vấn đề ấy? Người ta bị ảnh hưởng ra sao bởi các vấn đề này? Làm thể nào để các vấn đề có thể được giảm bớt hoặc được loại trừ? Đặc biệt là qua công tác tư vấn, làm thế nào để chúng ta có thể ngăn chặn được sự tái diễn của chúng, và chúng ta có thể nhận được nhiều thông tin hơn từ đâu? Các chương sau sẽ tóm tắt sự dạy dỗ của Thánh Kinh về các chủ đề này và sẽ lôi cuốn nhiều sự nghiên cứu mới về tâm lý với nhiều sự khôn sáng.
TÂM LÝ HỌC CÓ THỂ GIÚP ĐƯỢC CHĂNG?
Để gia tăng hiệu quả công tác tư vấn của mình, nhiều nhà lãnh đạo Hội Thánh đã quay về lại với việc thừa nhận sự hiểu biết của những nhà tâm lý học và các giáo sư về sức khỏe thần kinh. Tâm lý học là một lãnh vực trừu tượng của sự nghiên cứu, nó giải thích về cách cư xử của con người và động vật. Trong khóa học mở đầu, các sinh viên đại học thuộc khoa tâm lý học tổng quát thường phải đương đầu với một mớ thuật ngữ kỹ thuật và thống kê, cùng các “dữ liệu mang tính khoa học” về hàng loạt các chủ đề dường như không có chút quan trọng nào cả. Những khóa học ở trường trong việc tư vấn mục vụ thường có xu thế làm cho người ta trở thành trung tâm và quan trọng hơn, nhưng ngay với cả các sinh viên ở đây (và đôi khi cả giáo sư nữa) cũng có thể đánh mất đi một trong các lý thuyết và những kỹ thuật tưởng như không hữu ích lắm khi ai đó đối diện với một người đang bị thương tổn và hoang mang.
Điều này đã khiến cho một số tác giả phản bác đối với môn tâm lý học, bao gồm cả lãnh vực tư vấn, và họ kết luận rằng Kinh Thánh là tất cả những gì cần thiết mà người tư vấn Cơ Đốc có được để giúp đỡ những người khác. “Cơ Đốc Nhân thật không pha trộn giữa giáo lý Cơ Đốc với tâm lý học”, một tác giả mới đây đã nói như thế. 34 “Đức Chúa Trời và Lời Ngài cung cấp một nền tảng đầy đủ trọn vẹn cho thể chất nhạy cảm về thần kinh,” một tác giả khác đã viết như vậy. Kinh Thánh là nơi chứa đựng tất cả các tác nhân làm xoa dịu và chữa lành đối với tất cả mọi mức độ nhạy cảm về thần kinh, mà không dựa trên một hệ thống căn bản nào.” 35 Jay Adams cho rằng, các chuyên gia tâm thần học (và có lẽ các nhà tâm lý học nữa) đã giành lấy công việc của các nhà truyền giáo, họ đang ở trong tình trạng chiếm giữ nguy hiểm để gắng sức làm thay đổi thái độ và giá trị của con người trong tình trạng không có Chúa. Khi nhận định về các Mục sư, Adams xác nhận “nhờ việc học Lời Đức Chúa Trời một cách cẩn thận và quan sát kỹ càng về những nguyên tắc mà Thánh Kinh miêu tả về người được bạn tư vấn..., bạn có thể gặt hái được tất cả mọi thông tin và kinh nghiệm mà bạn cần có để trở thành một nhà tư vấn Cơ Đốc đầy tự tin và tài giỏi, mà không cần đến bất cứ một sự nghiên cứu nào về tâm lý học.” 36 Rõ ràng, các tác giả này không có mấy hy vọng rằng tâm lý học hoặc các lãnh vực có liên quan trong việc nghiên cứu, sẽ có thể giúp Cơ Đốc Nhân tư vấn một cách có hiệu quả hơn.
Khi bạn đọc sang những trang kế tiếp, bạn sẽ thường xuyên tìm thấy nhiều sự tham khảo đối với Kinh Thánh. Lời Đức Chúa Trời là nơi chứa đựng tất cả các tác nhân làm xoa dịu và chữa lành đối với tất cả mọi mức độ nhạy cảm về thần kinh. Trong đó có đề cập đến con người ngày nay. Tất nhiên trong đó có cả mối liên quan sâu sắc và lâu dài trong công việc của người tư vấn với những nhu cầu của những người được tư vấn.
Thế nhưng Kinh Thánh chẳng bao giờ tuyên bố rằng mình có quyền để trở nên một cuốn sách giáo khoa về công tác tư vấn. Một cách chắc chắn, Kinh Thánh giải quyết được tất cả các nan đề như: sự cô đơn, sự thất vọng, các vấn đề về hôn nhân gia đình, nỗi đau, các mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, sự giận dữ, nỗi sợ hãi, và một số tình huống tư vấn khác; nhưng Kinh Thánh chẳng bao giờ có ý để trở nên sự mặc khải duy nhất của Đức Chúa Trời trong việc giúp đỡ người khác. Trong lãnh vực y khoa, việc giáo dục và các công tác hổ trợ khác mà “con người là trung tâm” nghiên cứu, chúng ta được phép để tìm hiểu nhiều điều về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời qua việc nghiên cứu về khoa học và lý thuyết. Như vậy thì tại sao tâm lý học lại không thể là một môn học riêng lẻ như là một lãnh vực nào đó mà nó không cần đến bất cứ thứ gì khác để chi phối công việc của người tư vấn?
Tương tự như một lãnh vực nghiên cứu, nghành tâm lý học có tuổi đời hình thành ít hơn một trăm năm tuổi. Trong suốt thế kỷ qua, Đức Chúa Trời đã cho phép các nhà tâm lý học phát triển cẩn thận những phương thức khảo cứu cho việc nghiên cứu thái độ của con người, cùng với các cuộc nghiên cứu chuyên nghiệp cho việc chia sẻ những tài liệu đã được phát hiện về lãnh vực này. Có lẽ khi có hàng trăm ngàn người đến và xin được giúp đỡ, thì các nhà tư vấn chuyên nghiệp đã học được cách có thể làm thay đổi người khác như thế nào, và khiến người khác hành xử theo cách của họ. Sự hiểu biết của chúng ta thật khó hoàn thiện được cũng như không thể nói là không có sai trật nào, nhưng sự nghiên cứu cẩn thận về tâm lý học và việc phân tích dữ liệu đã khiến cho một hồ chứa mênh mông những kết luận được biết đến nhằm mang lại sự giúp đỡ cho những người được tư vấn và cho cả những người nào muốn trở thành người giúp đỡ-người khác có hiệu quả. Ngay cả đối với những người có thể giải tỏa về lãnh vực tâm lý một cách thường xuyên, biết sử dụng các thuật ngữ về tâm lý học trong các tác phẩm của mình cách thành thạo, thì các kỹ thuật mang tính tâm lý cũng được rút ra qua việc tư vấn của họ.
Trong những chương tiếp theo, các tác phẩm của những nhà khoa học xã hội thường xuyên trích dẫn về các giả thuyết cho rằng mọi sự thật đều đến từ Đức Chúa Trời, bao gồm sự thật về con người do Đức Chúa Trời tạo dựng. Ngài đã giải bày sự thật này qua Kinh Thánh - là Lời được viết bởi Đức Chúa Trời cho con người, nhưng Ngài cũng đã cho phép chúng ta tìm hiểu sự thật qua kinh nghiệm và bằng các phương pháp nghiên cứu về khoa học. Sự thật được phát hiện phải luôn luôn nhất quán, và luôn được thử nghiệm với chuẩn mực sự thật mà Thánh Kinh tỏ bày. Thế nhưng hiệu quả tư vấn của chúng ta sẽ bị giới hạn khi chúng ta giả vờ tin rằng những phát hiện về tâm lý học chẳng là gì cả để tác động đến sự hiểu biết và giải pháp của các vấn đề. Chúng ta chấp nhận tính chất trung thực khi chúng ta công khai phản bác tâm lý học, nhưng sau đó lại tranh chiến với những quan niệm của nó trong sự tư vấn của chúng ta – thỉnh thoảng chúng ta thật cả tin và thậm chí không nhận ra chính điều mà chúng ta đang làm.
Hãy để tâm trí chúng ta chấp nhận sự thật rằng tâm lý học có thể là một sự giúp đỡ lớn lao đối với công tác tư vấn Cơ Đốc. 37 Kế đến, làm thế nào chúng ta có thể lội qua bãi lầy của kỹ năng, lý thuyết, và những thuật ngữ chuyên môn để tìm ra những sự khôn sáng mà chúng thật sự có ích? Câu trả lời liên quan đến việc tìm kiếm một người hướng dẫn cho chúng ta – một người nào đó hoặc một nhóm người kết ước theo chân Đức Chúa Jêsus-Christ, làm quen với văn hóa, tâm lý và việc tư vấn, được đào tạo về việc tư vấn, qua sự nghiên cứu các phương pháp (cũng như tính chính xác của khoa học trong việc đánh giá về những kết luận của các nhà tâm lý học), và mang lại hiệu quả cho những nhà tư vấn. Đó là sự quan trọng có tính quyết định cho những người tư vấn kết ước đối với nguồn cảm hứng và năng quyền của Kinh Thánh, cả hai đều có tiêu chuẩn trái ngược với tâm lý học; trong khi đó tâm lý học cần phải được thử nghiệm và phải đúng với Lời được viết ra từ Đức Chúa Trời, và tất cả sự tư vấn có giá trị phải thống nhất.
Các trang kế tiếp, và các băng từ cùng với quyển sách này, đều được chuẩn bị bởi nhiều người tư vấn, họ là những người có thể trợ giúp các nhà tư vấn Cơ Đốc trong sự vui mừng, thế nhưng nhiệm vụ đòi hỏi ở đây là phải giúp đỡ những người khác. Đây không phải là một quyển cẩm nang nội trợ, dạy về những công thức không bao giờ thay đổi và được thiết lập bởi các nhà tư vấn bậc thầy. Con người thì quá phức tạp để luôn được thay đổi, ngay cả với sự can thiệp của những nhà tư vấn tài giỏi nhất. Tất cả các nhà tư vấn đều có sự thất bại, thỉnh thoảng bởi vì họ thiếu khả năng, thiếu nhận thức hoặc bởi lỗi lầm nào đó; thường thì bởi người được tư vấn không thể hoặc sẽ không thay đổi. Thế nhưng những sự cải thiện sẽ hiệu quả hơn khi người tư vấn có một ít hiểu biết về các vấn đề và phải biết cần làm thế nào để can thiệp. Các chương kế tiếp được viết ra nhằm giúp đỡ để có được sự hiểu biết này và cung cấp một vài kiến thức cần thiết.
Tuy nhiên, trước khi chúng ta bắt đầu sự nghiên cứu này, chúng ta cần có một cái nhìn thấu đáo hơn về chính chúng ta, là những nhà tư vấn. Điều gì thúc đẩy chúng ta để trở thành những người giúp đỡ-người khác? Đâu là mối nguy cơ cho công việc tư vấn? Và tại sao quá nhiều nhà tư vấn bị kiệt sức dưới sức ép, khi cố gắng giúp đỡ những người đang bị thương tổn? Đây là những loại chủ đề mà chúng ta cần thảo luận trong chương kế tiếp.
Christian Couseling – Gary R. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Benner, David G. Psychotherapy and the Spiritual Quest. Grand Rapids, Mich.:
Baker,1988.
Bridges, Jerry. True Fellowship. Colorado Springs: NavPress,1985.
Collins, Gary R. Can You Trust Psychology? Downers Grove, Ill.. InterVarsity,
1988.
Getz, Gene A. Building Up One Another. Wheaton, Ill.: Victor Books,1976.
Kirwin, William T. Biblical Concepts for Christian Counseling. Grand Rapids,
Mich.: Baker,1984.
Miller, William R., and Kathleen A. Jackson. Practical Psychology for Pastors.
Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall 1985.
Trueblood, Elton. The Incendiary Fellowship. New York: Harper & Row,1967.
The Church And Counseling
“Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng có thể có quá nhiều người đang rên siết!” - một mục sư trẻ đã nói như vậy sau vài năm rời trường. Hội Thánh của ông đang tăng trưởng và ông muốn đem lại sự linh hoạt vốn đang rất cần tại Hội Thánh của ông. Nhưng trong những ngày hầu việc Chúa của mình, thỉnh thoảng hằng đêm dường như ông đang mang nặng tâm trạng đó không dứt - nhiều người đang rên siết. Và mỗi lần như thế, ông lại nghĩ đến sự hướng dẫn và tư vấn.
“Trong trường, người ta chẳng bao giờ nói cho chúng tôi rằng có quá nhiều người đang đói khát” – ông lại tiếp tục: “Họ chẳng bao giờ cảnh báo cho chúng tôi biết rằng một mục sư có thể phải đối diện và giải quyết nhiều vấn đề, như việc bạn bè đánh nhau, sự loạn luân giữa cha và con gái, nỗi sợ hãi, tình trạng hổn loạn, nỗi ám ảnh muốn tự sát, bệnh đồng tính luyến ái, sự nghiện ngập rượu và ma túy, sự thất vọng, sự lo lắng, mặc cảm tội lỗi, những bất hòa trong gia đình, sự mất cân đối trong vấn đề ăn uống, bị stress kinh niên, cùng vô số các vấn đề khác nữa. Chúng tôi đã qua một khóa học về việc tư vấn, và chẳng bao giờ thắc mắc về hậu quả hay sự khác nhau của các vấn đề ấy, nhưng chúng tôi đã có thể đương đầu với chúng sau khi tốt nghiệp trường Kinh Thánh”.
Cách đây nhiều năm, Wayne Oates đã viết: “Đối với một mục sư, đừng bao giờ quan tâm đến việc mình được huấn luyện, vì hoặc sẽ không vui sướng cho mấy về đặc ân được tuyển chọn hoặc sẽ chẳng vui thích để tư vấn tín đồ của mình. Chắc chắn họ chỉ mang đến những vấn đề của mình cho mục sư, để được ông hướng dẫn và chăm sóc cách tốt nhất, khôn ngoan nhất. Một mục sư khi còn đang ở trong chức vụ, không thể tránh khỏi điều đó. Sự lựa chọn của một mục sư không phải chỉ là chọn giữa việc tư vấn hay không tư vấn, nhưng còn là sự chọn lựa sao cho việc tư vấn đi theo một cách có nguyên tắc và phương pháp tốt.”1
Thật không dễ dàng chút nào để công tác tư vấn theo một cách có nguyên tắc và phương pháp tốt, đặc biệt là khi các vấn đề quá khác nhau, các nhu cầu quá lớn, và những kỹ năng tư vấn thì lại quá đa dạng; vì thế thường gây cho người ta nhiều bối rối và mâu thuẫn.
Nói một cách chính xác, hiện nay có hàng ngàn phương pháp tư vấn đang được sử dụng. Những cuốn sách, các bài báo viết về liệu pháp tâm lý và con người – có tác dụng giúp đỡ rất lớn đối với những áp lực về sự lo âu, bối rối triền miên. Dường như có rất nhiều lý thuyết và phương pháp tiếp cận việc tư vấn, cũng như có rất nhiều nhà tư vấn chuyên nghiệp. Với tất cả các lời khuyên và hoạt động này, ngay cả với các nhà tư vấn chuyên nghiệp làm việc trọn thời gian cũng có thể cảm thấy tràn ngập điều này.
Điều đó có thể được khích lệ nếu như những lần xuất bản, các phần lý thuyết, và sự trợ giúp huấn luyện cho các nhà tư vấn - tất cả đều có mục đích giúp đỡ cho các nhà tư vấn làm việc ngày càng hiệu quả hơn. Nhưng một vài cuốn sách tư vấn và nhiều nhóm nghiên cứu lại đặt ra nhiều nghi ngờ về tính hợp lý của nó. Đó là mục đích chính, nhưng các học giả chân thật lại đề xuất “những phương pháp mới” đơn giản; những phương pháp này được công bố để hợp nhất Cơ Đốc Nhân, nhưng đôi khi chính các phương phá này lại đánh mất tính hiệu năng của chúng. Những cuốn sách gần đây đã gây thêm nhiều bối rối bởi sự chỉ trích của các nhà tư vấn chuyên nghiệp2, và các bài giảng đầy xúc động. Một vài nhà chuyên môn và một số bài giảng được loan tải trên kênh truyền hình quốc gia đã làm cho nhiều người bị sai lệch trong đức tin, khiến họ nghĩ sai về việc tư vấn - chẳng cần một sự tư vấn nào.
Cần phải thừa nhận rằng, đôi khi sự tư vấn không thực sự mang lại một sự giúp đỡ nào, nhưng không phải tất cả đều như vậy. Ngay cả các nhà tư vấn được huấn luyện kỹ càng và có nhiều kinh nghiệm đi nữa, họ vẫn phải nắm vững phong cách văn học chuyên nghành và ứng dụng những kỹ năng hiệu quả nhất, để tìm ra những người được tư vấn, đôi khi nhờ đó mà họ tự cải thiện mình. Trong những trường hợp như vậy, một số ít người lại gặp khó khăn về thành quả tư vấn mà mình đạt được. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy một vài người từ bỏ công việc, và nhận định rằng việc tư vấn thật sự mất nhiều thời gian.3
Tuy nhiên, nếu ai cũng bỏ cuộc như thế thì con người sẽ đi đâu cùng với những vấn đề của họ? Đức Chúa Jêsus là Đấng làm gương cho các Cơ Đốc Nhân, Ngài đã sử dụng hàng giờ đồng hồ để nói chuyện với nhiều hạng người, những người đang có nhu cầu, và Ngài có nhiều cuộc tiếp xúc mặt đối mặt với họ. Sứ đồ Phao-lô, người đã rất nhạy bén về nhu cầu của từng cá nhân đang rên siếc, ông đã viết – chúng ta là những người khỏe mạnh, chúng ta cần phải chia xẻ sự yếu đuối và san sẻ bớt gánh nặng cho những ai yếu đuối hơn4. Có thể Phao-lô đang viết về những người đang có sự hoài nghi, sợ hãi, có đời sống tội lỗi; nhưng sự quan tâm thông cảm của ông lại đi xa hơn thế nữa… ông quan tâm đến từng vấn đề của họ. Ngược lại, ngày hôm nay có thể những người giống như vậy đang phải đối diện với nhiều nhà tư vấn.
Các nhà viết Kinh Thánh không giới thiệu người giúp đỡ như là một sự lựa chọn nào đó. Nhưng nó là trách nhiệm cho mỗi Cơ Đốc Nhân, bao gồm cả vị lãnh đạo Hội Thánh5. Nhiều lúc việc tư vấn dường như có thể mất nhiều thời gian, nhưng đó lại là trách nhiệm mà Kinh Thánh truyền cho mỗi Cơ Đốc Nhân, và có thể đây là một phần rất cần thiết, rất quan trọng và có hiệu quả cho bất kỳ chức vụ nào.
Không nên khẳng định rằng tất cả các mục sư và các vị lãnh đạo Cơ Đốc đều nhận được ân tứ tư vấn và được kêu gọi trong trách nhiệm tư vấn6. Bởi vì, với những sự quan tâm, thái độ, các kỹ năng, sự huấn luyện, hoặc ơn kêu gọi của mình, một vài Cơ Đốc Nhân tránh né trách nhiệm tư vấn, thay vào đó họ lại thích dành thời gian và ân tứ của họ cho các chức vụ khác. Điều này là một quyết định đúng, đặc biệt là khi nó được quyết định dưới sự tham khảo ý kiến từ những người bạn Cơ Đốc khác.
Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta phải cẩn thận, không bỏ qua bất kỳ một phương cách Thánh Kinh căn bản hay quyến năng tiềm ẩn nào, không lờ đi việc gây dựng cách cá nhân đối với người khác dưới bất kỳ chức vụ nào. Thật không dễ gì để tư vấn, nhưng bằng chứng lại quá hiển nhiên và đang phát triển - với nhiều nền tảng khác nhau, con người có thể học nhiều kỹ năng tư vấn có hiệu quả khác nhau7. Đức Chúa Trời có thể sử dụng bạn như là một người tư vấn !
SỰ CHĂM SÓC VÀ TƯ VẤN
Những nổ lực tư vấn nhằm đem lại sự khích lệ và hướng dẫn những người đang phải đối diện với những quyết định mang nhiều mất mác, hoặc thất vọng trong cuộc sống. Việc tư vấn có thể kích thích sự trưởng thành và phát triển nhiều tính cách. Có thể giúp người ta đương đầu một cách hiệu quả hơn với các nan đề trong cuộc sống, với những mâu thuẩn nội tâm, và với những thương tổn về tình cảm. Trợ giúp nhiều cá nhân hay các thành viên trong gia đình, giúp những cặp vợ chồng giải quyết những căng thẳng về tinh thần, hoặc hàn gắn đổ vỡ. Gắn kết người này với người kia lại với nhau một cách hiệu quả hơn, và trợ giúp cho một số người đang ở trong tình trạng thất bại và không hạnh phúc, có được những kiểu mẫu cho cuộc sống. Người tư vấn Cơ Đốc cố gắng tìm cách để giúp người khác bước vào mối liên hệ cá nhân với Đức Chúa Jêsus-Christ và giúp cho họ nhận được sự tha thứ và an ủi từ những mặc cảm tổn thương do tội lỗi và lỗi lầm của họ gây ra. Nói tóm lại, Cơ Đốc Nhân luôn hy vọng để giúp đỡ người khác trở nên môn đồ của Đấng Christ và môn đồ hóa người khác.
Quan tâm mục vụ. Một vài người đã kinh nghiệm được điều này và nhận ra sự khác biệt giữa sự quan tâm mục vụ, sự tư vấn mục vụ, và liệu pháp tâm lý mục vụ. Trong ba thuật ngữ vừa nói, sự quan tâm mục vụ là rộng nhất. Quan tâm mục vụ ám chỉ đến các mục vụ tổng quát của Hội Thánh về sự chữa lành, sự duy trì, sự hướng dẫn, và sự phục hòa giữa con người với Đức Chúa Trời và giữa con người với nhau8. Thỉnh thoảng sự quan tâm mục vụ còn được gọi là “sự quan tâm những linh hồn”, gồm có mục vụ về truyền giảng, dạy dỗ, kỷ luật, thi hành các thánh lễ, dưỡng dục tín hữu, và chăm sóc tín hữu trong lúc có cần. Từ thời của Đấng Christ, Hội Thánh đã kết ước với sự quan tâm mục vụ.
Tư vấn mục vụ.
Điều này là một phần đặc biệt hơn của sự quan tâm mục vụ, liên quan đến việc giúp đỡ nhiều người, các gia đình, hoặc nhiều nhóm người khi họ đối diện với nhiều áp lực và khủng hoảng trong cuộc sống. Tư vấn mục vụ sử dụng sự khác nhau về các phương pháp chữa lành thích hợp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh, để giúp con người giải quyết những vấn đề bằng nhiều cách khác nhau. Mục đích cuối cùng là nhằm giúp những người được tư vấn kinh nghiệm về sự chữa lành, tìm tòi học hỏi, và có sự trưởng thành thuộc linh cách cá nhân.
Khi sự tư vấn mục vụ được định nghĩa theo truyền thống, thì mục vụ tư vấn là công việc của vị mục sư đã được phong chức. Nói theo sự dạy dỗ của Thánh Kinh thì tất cả các tín hữu đều phải mang lấy những gánh nặng cho nhau,9 mục vụ tư vấn có thể và nên là một chcs vụ của những Cơ Đốc Nhân sốt sắng và có tinh thần chăm sóc; dù thế nào đi nữa thì những Cơ Đốc Nhân này đều được phong chức như là các giáo sĩ. Trong các trang tiếp theo, độc giả sẽ thấy tư vấn mục vụ và tư vấn Cơ Đốc có thể được sử dụng trao đổi thay thế cho nhau.
Liệu pháp tâm lý mục vụ.
Đây là một thuật ngữ dài, trong chiều sâu của quá trình giúp đỡ, những nổ lực nhằm mang lại các sự thay đổi đặt nền tảng trên tính cách của người được tư vấn, trên những giá trị thuộc linh, và cách suy nghĩ. Đây là một hình thức đem lại sự giúp đỡ để tìm cách di dời những rào cản thường có trong quá khứ, làm kềm hãm sự trưởng thành thuộc linh cá nhân. Đây cũng là công việc của một nhà chuyên môn đã được huấn luyện, và rất hiếm khi liệu pháp tâm lý mục vụ được nhắc đến trong cuốn sách này.10
ĐIỀU GÌ KHIẾN SỰ TƯ VẤN CƠ ĐỐC HIỆP NHẤT?
Cách đây vài năm, tôi hướng dẫn một buổi hội thảo cho lớp huấn luyện các mục sư tuyên úy, là những người đã thách thức ý tưởng - tư vấn Cơ Đốc là hiệp nhất. “Không có một Cơ Đốc Nhân nào phân biệt được sự tư vấn”, một trong những học viên của lớp đã đưa ra ý kiến. “Không có hình thức Cơ Đốc nào là hiệp nhất về chuyên môn phẫu thuật, các quy trình tự động Cơ Đốc, hoặc sự nung nấu Cơ Đốc nào, và không có cả tư vấn Cơ Đốc.”
Ngày nay, các nhà tư vấn Cơ Đốc và những người không tin cũng đều sử dụng nhiều kỹ năng đã được phát triển, nhưng tư vấn Cơ Đốc có ít nhất bốn sự khác biệt.11
Những giả định hiệp nhất.
Không một lời tư vấn nào có giá trị độc lập hoặc trung lập một cách hoàn toàn trong các thuật ngữ của những sự giả định. Mỗi chúng ta nên đem lại cho chính mình những quan điểm riêng trong tình trạng đang được tư vấn và chúng ảnh hưởng đến sự nhận xét và bình luận của chúng ta cho dù chúng ta có nhận ra hay không.
Chẳng hạn, nhà phân tâm học Erich Fromm có lần đã khẳng định rằng, tất cả chúng ta đang sống “trong một vũ trụ hoàn toàn bàng quan về số phận của chúng ta”. Một quan điểm như thế có thể không phủ nhận một điều nào đó đối với niềm tin nơi Đức Chúa Trời nhơn từ và tối cao. Có lẽ cũng không còn chỗ cho sự cầu nguyện, cho sự suy gẫm về “Lời Đức Chúa Trời”, về kinh nghiệm ơn tha thứ, hoặc sự trông cậy về đời sau. Những sự giả định của Fromm tất nhiên phải có ảnh hưởng đến các phương pháp huấn luyện của ông.
Mặc dầu có nhiều sự thay đổi về lý thuyết, nhưng hầu hết chính những nhà tư vấn đều kêu gọi Cơ Đốc Nhân có (hoặc nên có) niềm tin về các thuộc tánh của Đức Chúa Trời, về bản tánh của con người, về quyền năng của Kinh Thánh, hậu quả của tội lỗi, sự tha thứ của Đức Chúa Trời, và niềm hy vọng về tương lai. Chẳng hạn như khi đọc đến bốn câu đầu của sách Hê-bơ-rơ, ta sẽ thấy được điều này. Phải chăng cuộc sống và sự tư vấn của chúng ta sẽ không khác đi nếu như chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời bởi Con Ngài đã phán dạy về dòng giống con người và vũ trụ là do Ngài sáng tạo, đối với tội lỗi Ngài đem lại sự tha thứ, và bằng mệnh lệnh của mình, Ngài quản trị tất cả bởi quyền năng tuyệt đối của Ngài?
Các mục đích thống nhất.
Cũng như các bạn bè của chúng ta, Cơ Đốc Nhân tìm kiếm sự giúp đỡ hầu mang lại những thay đổi về cách cư xử, thái độ, nhận chân giá trị, hoặc thay đổi cả về quan niệm sống cho những người được tư vấn. Chúng ta cố gắng để truyền đạt những kỹ năng, bao gồm những kỹ năng về xã hội để kích hoạt nhận thức và sự biểu lộ cảm xúc nơi người khác, hầu đem lại sự ủng hộ trong những lúc có cần, để giáo dục về trách nhiệm, làm thấm nhuần sự khôn ngoan thông sáng, và để hướng dẫn họ khi quyết định việc gì. Việc giúp đỡ những người được tư vấn là nhằm kích hoạt những khả năng ẩn tàng bên trong đối với môi trường sống trong những lúc khủng hoảng; để dạy dỗ về những kỹ năng giải quyết vấn đề, thúc đẩy khả năng và tính độc lập của người được tư vấn và “sự tự thực tế.” 13
Không dừng ở đó, Cơ Đốc Nhân còn đi xa hơn khi tìm kiếm sự kích thích để phát triển tâm linh cho những người được tư vấn. Khuyến khích sự xưng tội và kinh nghiệm về sự tha thứ thánh, làm mới lại những tiêu chuẩn, thái độ, giá trị, và nếp sống Cơ Đốc, giới thiệu sứ điệp Phúc-Âm, khuyến khích những người được tư vấn gắn bó đời sống của họ với Đức Chúa Jêsus-Christ; đồng thời kích thích những người được tư vấn phát triển các giá trị và sự linh hoạt của cuộc sống mà chúng phải được đặt nền tảng trên sự dạy dỗ của Thánh Kinh, thay vì sống phụ thuộc vào những tiêu chuẩn ủng hộ chủ nghĩa nhân văn tương đối.
Một vài người sẽ chỉ trích điều này như là “việc đem lại sự tư vấn cho tôn giáo”. Tuy nhiên, để bỏ qua những chủ đề về học thuyết, sự tư vấn của chúng ta cần phải được xây dựng trên nền tảng tôn giáo; vì quan niệm tự nhiên là ủng hộ chủ nghĩa nhân văn, làm ngột ngạt niềm tin cá nhân, và phân chia cuộc sống của chúng ta thành nhiều phần vừa mang tính thiêng liêng vừa có tính thế tục. Không một người tư vấn nào, hoặc một Cơ Đốc Nhân nào - cho dù không phải là Cơ Đốc Nhân sốt sắng - lại ép buộc những người được tư vấn đối với niềm tin của họ. Chúng ta có một nguyên tắc là phải đối đãi với người khác bằng sự kính trọng và đem lại sự tự do để họ tự quyết định. Nhưng những người-giúp đỡ thành thật và đáng tin cậy sẽ không làm ngột ngạt niềm tin của họ và không giả vờ một điều gì đó mà thật ra thì không phải như vậy.
Các phương pháp thống nhất.
Tất cả các kỹ thuật tư vấn có ít nhất bốn đặc điểm. Chúng khơi gợi niềm tin trong một chừng mực có thể, chỉnh sửa các niềm tin sai lầm về thế gian, phát triển những khả năng trong đời sống xã hội, và giúp đỡ những người được tư vấn chấp nhận chính họ như là những người có giá trị. Để đạt được các mục tiêu này, những kỹ thuật căn bản như thế phải được người tư vấn sử dụng cách nhất quán; chẳng hạn như phải biết lắng nghe, biết thể hiện sự quan tâm, phải cố gắng hiểu, và ít nhất đôi khi cũng đem lại một sự chỉ dẫn nào đó. Cả các Cơ Đốc Nhân lẫn những người tư vấn không phải là Cơ Đốc Nhân đều sử dụng nhiều phương pháp hổ trợ giống nhau.
Tuy nhiên, Cơ Đốc Nhân không bao giờ sử dụng các kỹ thuật tư vấn có thể bị đánh giá là sai trái về mặt đạo đức, hoặc không nhất quán với sự dạy dỗ trong Thánh Kinh. Chẳng hạn, việc khuyến khích người ta chấp nhận về vấn đề ngoại tình hoặc có quan hệ tình dục trước hôn nhân, việc sử dụng ngôn ngữ có tính lăng mạ, việc không quan tâm đến cách thức áp dụng của họ mà theo chỉ dẫn của những bác sĩ chuyên khoa về phép chữa bệnh thế tục, hoặc hối thúc những người được tư vấn phát triển các giá trị trái với Kinh Thánh mà lẽ ra tất cả những điều đó cần phải tránh nói đến.
Một số những kỹ thuật khác mà Cơ Đốc Nhân rất dễ phân biệt và có thể áp dụng trong việc tư vấn Cơ Đốc theo từng mức độ. Bao gồm sự cầu nguyện trong phiên họp bàn về công tác tư vấn,14 việc đọc Kinh Thánh, sự đối đầu hòa nhã về các lẽ thật Cơ Đốc, hoặc việc khuyến khích những người được tư vấn trở nên gắn bó với một nhà thờ địa phương nào đó, là những ví dụ điển hình.
Các đặc điểm người tư vấn thống nhất.
Tùy theo từng trường hợp tư vấn, người tư vấn cần phải tự đặt cho mình ít nhất bốn câu hỏi: Vấn đề ở đây là gì? Tôi có nên xen vào giữa và tìm cách giúp đỡ không? Tôi có thể làm gì để giúp đỡ? Phải chăng cần một người khác có khả năng tốt hơn để giúp đỡ chăng? 15 Tất nhiên điều này rất quan trọng đối với những tư vấn Cơ Đốc, vì nhờ đó họ có được sự hiểu biết tường tận cho từng vấn đề (nan đề phát sinh như thế nào, và chúng có thể được giải quyết ra sao); đồng thời có một nền tảng kiến thức về sự dạy dỗ của Kinh Thánh cho các vấn đề, và nắm bắt một cách rõ ràng về những kỹ năng tư vấn.
Tuy nhiên, có đủ bằng chứng cho thấy rằng những đặc điểm cá nhân của người tư vấn có ý nghĩa lớn lao hơn trong quá trình tư vấn. Sau khi viết một cuốn sách chuyên sâu về các học thuyết về sự tư vấn, nhà tâm lý học C. H. Patterson đã kết luận rằng người tư vấn hiệu quả phải là “một con người có thật,” là người biết hy sinh “mối quan hệ con người thành thật” với những người được tư vấn. “Đó là một mối quan hệ có đặc điểm không mang quá nhiều những kỹ thuật mà một bác sĩ chuyên khoa sử dụng như bởi cái mà bác sĩ có, cũng không mang quá nhiều những điều mà bác sĩ làm theo như cách mà bác sĩ thực hiện nó.” 16
Cách đây vài năm, một số những công trình nghiên cứu đã đưa ra những phương pháp tư vấn mang lại hiệu quả nhất khi chúng được những người tư vấn sử dụng, họ là những người có phẩm tính đặc biệt về sự trìu mến, nhạy bén, hiểu biết, có sự quan tâm thành thật, và luôn sẵn lòng để đối đầu với người khác trong một thái độ đầy tình yêu thương. Những cuốn sách giáo khoa về việc tư vấn đôi khi tạo ra áp lực về tầm quan trọng của những phẩm chất mà người tư vấn phải có, như là sự đáng tin cậy, có sức khỏe và tâm lý tốt, trung thực, kiên nhẫn, có khả năng, và sự hiểu biết đầy đủ. 17 Dựa trên những nghiên cứu gần đây cho thấy, những người giúp đỡ có hiệu quả nhất khi họ có được những đặc điểm này của người tư vấn, cùng với kiến thức về các vấn đề liên quan đến con người và những kỹ năng tư vấn tốt. 18 Jay Adams cho rằng, những dự định tốt nhất không phải là sự thay thế cho kiến thức và những kỹ năng. 19
Lẽ tất nhiên, Đức Chúa Jêsus-Christ là kiểu mẫu tốt nhất cho chúng ta có được một “nhà tư vấn tuyệt vời” và thật hiệu quả, Ngài là người có tính cách, kiến thức, và những kỹ năng có thể khiến cho người tư vấn giúp đỡ một cách hiệu quả hơn đối với những người cần được giúp đỡ. Trong nổ lực để phân tích sự tư vấn của Chúa Jêsus, chúng ta phải nhận thức rằng mỗi chúng ta có thể có một hướng đi, cho dù không có ý thức hay có chủ tâm đi chăng nữa, việc chú tâm nhìn xem công việc của Đấng Christ cũng là một cách để củng cố những việc làm của chúng ta, về việc người ta cần được giúp đỡ như thế nào. Đối với người tư vấn đối đầu cách trực tiếp, họ nhận ra rằng đôi khi Chúa Jêsus cũng phải đối đầu theo cách như vậy; với người tư vấn mà “khách hàng là trung tâm”, thì không trực tiếp thấy được sự đồng nhất về thành quả đạt được trong những trường hợp khác đối với sự giúp đỡ của Đấng Christ. Chắc chắn là chính xác để khẳng định rằng Chúa Jêsus đã sử dụng nhiều kỹ thuật tư vấn khác nhau tùy thuộc vào từng tình huống, tùy theo bản tính của người được tư vấn, và tùy thuộc từng vấn đề cụ thể. Đôi khi người tư vấn lắng nghe người khác trình bày một cách cẩn thận mà không đưa ra bất kỳ sự hướng dẫn rõ ràng nào, nhưng trong những trường hợp khác thì người tư vấn lại dạy dỗ một cách dứt khoát. Người tư vấn vừa khuyến khích và ủng hộ, bên cạnh đó người tư vấn cũng vừa đối đầu và thách thức. Như vậy, người tư vấn vừa phải biết chấp nhận những con người lầm lỗi và thiếu sót, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi sự ăn năn, sự vâng lời, và cần phải hành động.
Tuy nhiên, nền tảng cho đặc điểm nổi bật của Chúa Jêsus trong việc giúp đỡ người khác chính là tính cách của Ngài. Trong sự dạy dỗ, chăm sóc và tư vấn, những đặc điểm, thái độ, và giá trị này của Ngài luôn thể hiện – để khiến mọi việc Ngài làm thật sự có hiệu quả – Ngài giúp đỡ người khác và Ngài phục vụ người khác – Ngài đã nêu gương cho chúng ta noi theo. Đức Chúa Jêsus – Ngài là Đấng chân thật, đầy lòng thương xót; sự cảm thông của Ngài thật là lớn, và Ngài đầy sự trưởng thành thuộc linh. Ngài đã hứa sẽ phục vụ Cha Ngài trên trời và những người theo Ngài trên đất (theo thứ tự công việc mà Cha Ngài phán dặn). Ngài cũng chuẩn bị chính mình cho công việc của Ngài với nhiều giai đoạn về sự cầu nguyện và sự suy ngẫm thường xuyên. Ngài biết rất rõ về Kinh Thánh. Ngài thấu hiểu những người thiếu thốn đang cần Ngài giúp đỡ, vì thế họ có thể tìm thấy được sự bình an, hy vọng và sự an toàn tuyệt đối từ nơi Ngài. 20
Chúa Jêsus thường giúp đỡ dân chúng qua các bài giảng, nhưng có lúc Ngài cũng tranh luận với những người hoài nghi, thách thức trực tiếp với nhiều người, chữa lành nhiều người đau ốm bệnh tật, gần gũi chuyện trò với những người thiếu thốn hay những ai đang có nhu cầu; Ngài khích lệ, nâng đỡ những người ngã lòng, và Ngài đã làm gương sáng cho mọi người – đó là điểm nổi bật về đời sống thiêng liêng thiên thượng. Trong những cuộc tiếp xúc của Ngài với dân chúng, Chúa đã chia sẻ nhiều thí dụ từ các tình huống của đời sống thực tế hàng ngày, và Ngài không ngừng khích lệ người khác, để giúp họ nghĩ và hành động phù hợp với những nguyên tắc của Thánh Kinh. Rõ ràng là Ngài đã tin rằng một số người cần có một người giúp đỡ hiểu biết, biết lắng nghe, biết an ủi, và biết thảo luận với họ trước khi họ có thể học hỏi điều gì đó từ sự đối đầu với thách thức, để đem lại những lời khuyên lơn, hoặc sự dạy dỗ tổng quát.
Dựa trên Thánh Kinh, những Cơ Đốc Nhân được dạy dỗ về tất cả mọi điều mà Đấng Christ truyền lại và dạy dỗ trong Kinh Thánh. 21 Tất nhiên điều này bao gồm cả những lời giáo huấn của Đức Chúa Trời về quyền năng, về sự cứu rỗi, về sự tăng trưởng thuộc linh, về sự cầu nguyện, về Hội Thánh, về tương lai, về các thiên sứ, ma quỷ, và về con người. Thế nhưng Chúa Jêsus cũng đã dạy dỗ về hôn nhân gia đình, về những ảnh hưởng giữa bố mẹ và con cái, về sự vâng lời, về những mối quan hệ huyết thống, và về sự tự do dành cho giới nữ và đối với nam giới. Ngài cũng đã dạy dỗ nhiều điều mang tính cá nhân khác, chẳng hạn như, Ngài dạy dỗ về giới tính, về sự lo lắng, sự sợ hãi, nỗi cô đơn, sự nghi ngờ, tính tự cao, về tội lỗi, và về sự thất vọng.
Nhờ tất cả những chủ đề trên mà người ta có thể cung cấp những kỹ năng cần thiết cho những nhà tư vấn ngày nay. Khi Chúa Jêsus giúp giải quyết những nan đề này cho dân chúng, Ngài luôn biết lắng nghe những ưu tư của họ và Ngài trả lời cho họ trước khi giúp họ nghĩ hoặc hành động một cách khác nhau. Thỉnh thoảng Ngài kể cho dân chúng nghe về điều mà Ngài làm, nhưng đôi khi Ngài cũng sử dụng nhiều câu hỏi gợi ý sâu sắc mang tính thiêng liêng để giúp nhiều người tự giải quyết các vấn đề riêng của họ. Thô-ma, người đã được giúp đỡ cho sự nghi ngờ của ông, khi Chúa Jêsus chỉ cho ông thấy bằng chứng sống khi Ngài đã sống lại; có lẽ Phi-e-rơ là người đã học hỏi được nhiều nhất từ sự phản chiếu (với Chúa Jêsus) về những lỗi lầm của ông trong quá khứ, Ma-ri ở Bê-tha-ni cũng đã học biết lắng nghe, và Giu-đa cũng đã học được nhiều điều từ kinh nghiệm đau thương của ông.
Tất cả những sự dạy dỗ của Chúa Jêsus bao gồm sự dạy dỗ trong các lời giáo huấn, nhưng đồng thời cũng liên quan đến việc giúp đỡ người khác gần gũi hơn với Đức Chúa Trời, với người chung quanh, và với chính họ. Tất cả những sự dạy dỗ này hầu như mọi người đều quan tâm. Một vài người học hỏi từ những bài thuyết giảng, những sứ điệp, hoặc qua những cuốn sách; một số những người khác thì học hỏi từ sự nghiên cứu Kinh Thánh cách cá nhân, hoặc từ những cuộc thảo luận; một số người khác thì học hỏi từ sự tư vấn chính thức hay không chính thức; và có lẽ hầu như tất cả chúng ta đã và đang học được nhiều điều từ một vài sự liên kết của tất cả những cách trên.
Điểm cốt lõi của tất cả những sự giúp đỡ mang tính Cơ Đốc, hoặc chung hoặc riêng tư, đều xuất phát từ sự ảnh hưởng của Đức Thánh-Linh. Sự hiện hữu và ảnh hưởng của Thánh-Linh làm cho sự tư vấn Cơ Đốc thật sự thống nhất. Ngài chính là Đấng giúp cho những đặc điểm của người tư vấn có hiệu quả nhất, như về tình yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, và tiết độ. 22 Ngài là Đấng Yên-ủi hoặc Giúp-đỡ, là Đấng dạy dỗ “mọi sự”, nhắc lại cho chúng ta nhớ mọi điều Đấng Christ đã phán dạy, là Đấng cáo trách tội lỗi, và dẫn đưa chúng ta vào mọi lẽ thật của Ngài. 23 Qua sự cầu nguyện, sự suy gẫm Kinh Thánh, qua sự xưng tội thường xuyên, và sự cam kết rõ ràng mỗi ngày với Đấng Christ, vị thầy-tư vấn trở nên một công cụ hữu ích cho công việc của Đức Thánh-Linh – Ngài yên ủi, giúp đỡ, dạy dỗ, cáo trách, hoặc hướng dẫn chúng ta. Điều này phải nên là mục đích cho mỗi người tin Chúa – Mục sư hoặc người không chuyên nghiệp, giáo sư tư vấn hoặc người tư vấn chưa có kinh nghiệm – đều được Đức Thánh-Linh sử dụng – chính Ngài là Đấng đụng đến mỗi đời sống chúng ta và làm thay đổi nó, và Ngài giúp chúng ta đạt đến tuổi trưởng thành về tâm linh cũng như về tâm lý. 24
HỘI THÁNH NHƯ LÀ MỘT CỘNG ĐỒNG CHỮA LÀNH
Như chúng ta đã thấy, Chúa Jêsus thường nói chuyện với nhiều người về những nhu cầu riêng của họ và Ngài thường xuyên gặp gỡ nhiều nhóm nhỏ. Ngài là Đấng chủ trì giữa họ, và trong từng nhóm môn đồ nhỏ, Ngài đã chuẩn bị để họ sẽ “tiếp quản” công việc sau khi Ngài thăng thiên. Đó là điều mà Ngài đã phán trong khi Ngài dạy dỗ dân chúng trên đất, và Chúa Jêsus cũng đã phán với các môn đồ trong lần đầu tiên Ngài nhắc đến Hội Thánh. 25
Trải qua nhiều năm, điều này đã giúp cho Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus-Christ vẫn tiếp tục sứ mệnh của Ngài trong việc dạy dỗ, rao giảng, chăm sóc, và tư vấn. Đây là những công việc không thể thấy được – chúng như là trách nhiệm đặc biệt của những người lãnh đạo Hội Thánh “rất nổi tiếng”; họ đã hoàn tất công việc nhờ có những người tin Chúa bình thường cùng cộng tác làm việc, cùng chia sẻ, cùng chăm sóc lẫn nhau và cho cả những người chưa tin bên ngoài Hội Thánh nữa. Nếu như chúng ta đọc sách Công-vụ các Sứ-đồ 26 và các sách thư tín, thì rõ ràng rằng Hội Thánh trở nên một Hội nên Thánh không những chỉ vì họ là một cộng đồng truyền giáo, dạy dỗ, kỷ luật – mà còn là một cộng đồng chữa lành nữa.
Những cộng đồng chữa lành là những nhóm người “mang đặc điểm là có sự cam kết gắn bó trong nhóm và có cùng một sự quan tâm chung về sự chữa lành . . . những bệnh tật về tâm lý, cách cư xử, hoặc về tâm linh.” 27 Trong những năm gần đây, khi nghiên cứu những nhóm bệnh nhân được điều trị, những giáo sư chuyên môn về khoa thần kinh đã phát hiện thấy giá trị của việc chữa bệnh lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm bằng cách đem lại sự ủng hộ, tạo ra thách thức, sự hướng dẫn, và sự khuyến khích; nói cách khác, cách chữa trị như thế dường như không mang lại hiệu quả. Dĩ nhiên những nhóm như thế có thể bị hãm hại, đặc biệt là khi họ trở nên những nhóm người không quản trị được, và họ tìm kiếm nhiều cách để chỉ trích và làm cho những người tham dự lúng túng thay vì gây dựng họ, hoặc thách thức họ trong sự cởi mở và biết cách cư xử có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu như họ được dạy dỗ bởi một người lãnh đạo nhạy bén, thì những nhóm người như thế có thể rất có hiệu quả trong kinh nghiệm chữa trị bệnh cho tất cả những người có liên quan.
Những nhóm người được chữa trị như thế không nhất thiết giới hạn trong các cuộc gặp gỡ giữa những người được tư vấn với một tư vấn được huấn luyện trước. Các gia đình, các nhóm nghiên cứu, những bạn bè tin cậy nhau, những giáo sư đồng nghiệp, các nhóm công nhân, và những nhóm nhỏ khác thường đem lại sự giúp đỡ rất cần thiết trong những lúc khủng hoảng hay khi người ta phải đối diện với những thách thức hàng ngày trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong tất cả mọi xã hội, Hội Thánh luôn có tiềm năng lớn lao đối với một cộng đồng chữa lành-được chữa trị. 28 Sự hiện diện của người tin Chúa trong Hội Thánh địa phương có thể đem lại một ý thức lệ thuộc vào những thành viên khác,29 nâng đỡ những người yếu đuối, chữa lành cho những người gặp thử thách, và hướng dẫn nhiều người có thể quyết định đúng và giúp họ hướng đến tuổi trưởng thành.
Thật đáng buồn nếu như các Hội Thánh ngày nay dường như ít hơn những nhóm người không có trong danh sách, đó là những người cứng cõi, họ không bao giờ chấp nhận mình có nhu cầu hoặc có vấn đề gì cả, họ là những người chỉ tham dự vào những công việc tầm thường bên ngoài theo thói quen, và họ bỏ qua hầu như tất cả các công việc nặng nhọc mà một Mục sư phải chịu đựng. Một hình ảnh như thế có thể được phóng đại, nhưng đối với nhiều người thì Hội Thánh địa phương không có một ý nghĩa quan trọng nào, và cũng chẳng có giúp ích gì nhiều cho họ; và xa hơn nữa từ động lực phát triển-cung cấp mối thông công mà Đấng Christ đã dự định.
Tại sao Hội Thánh lại được bắt đầu như thế? Chắc chắn câu trả lời nằm trong những lời phán cuối cùng của Chúa Jêsus dành cho những người theo Ngài trước khi Ngài quay trở lại thiên đàng: “Hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhơn danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh-Linh mà làm phép báp-têm cho họ; và dạy họ giữ hết cả mọi đều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.” 30
Hội Thánh đã được gây dựng để hoàn tất đại mạng lệnh – khiến muôn dân trở nên môn đồ của Chúa (điều này bao gồm sự truyền giáo), và dạy dỗ họ. Những người tin Chúa đầu tiên đã tập hợp lại trong sự thông công hoặc koinonia liên quan đến một mối quan hệ cộng đồng, một sự cộng tác đã đẩy mạnh hoạt động đối với Phúc-Âm. Những người tin Chúa đã được gây dựng bởi sự chia sẻ lẫn nhau về sự khôn sáng, từng trải, sự thờ phượng, nhu cầu, và sở hữu vật chất. 31 Hội Thánh thật là Hội Thánh mà Đức Chúa Jêsus-Christ luôn là đầu Hội Thánh. Ngài là Đấng chỉ cho chúng ta thấy được làm thế nào để rao truyền và dạy dỗ, là Đấng mà bởi sự sống và sự dạy dỗ của Ngài chỉ cho chúng ta nhiều thực tiễn cũng như nhiều nền tảng Cơ Đốc, và Ngài là Đấng đã tóm lược sự dạy dỗ của Ngài trong hai điều: hãy yêu Đức Chúa Trời và yêu người khác.
Tất cả điều này có ý nghĩa thay thế cho những hạn chế của một nhóm những người tin Chúa, mỗi một tín đồ được ban cho một số ân tứ và khả năng cần thiết để gây dựng Hội Thánh. Như trong cùng một nhóm, họ được hướng dẫn bởi một Mục sư và những người lãnh đạo được lựa chọn khác, các tín đồ trực tiếp trình dâng những hoạt động và dự định của họ lên Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng, thậm chí qua việc truyền giáo, trong sự dạy dỗ, thông công, và sự chịu đựng mọi gánh nặng. 32 Khi một trong những điều này mất đi thì nhóm này sẽ không được cân bằng và các tín đồ sẽ không được trọn vẹn.
Các chương còn lại của cuốn sách này được viết nhằm hổ trợ cho những người tư vấn, các Mục sư, những người lãnh đạo Hội Thánh, các sinh viên, và cho tất cả các Cơ Đốc Nhân khác trong một lĩnh vực quan trọng nào đó đối với công việc của Hội Thánh: chịu đựng gánh nặng. 33 Những chủ đề được thảo luận với những vấn đề phổ biến nhất, đối diện với những Cơ Đốc Nhân và những người không tin Chúa: các vấn đề ấy liên quan đến sự thờ phượng, sự truyền giáo, dạy dỗ, thông công, sự phát triển, các mối quan hệ có ý nghĩa, sự trưởng thành của mỗi cá nhân, và niềm vui cá nhân. Đối với từng chủ đề, chúng ta sẽ xem xét những nguyên nhân nào đã gây ra các vấn đề ấy? Người ta bị ảnh hưởng ra sao bởi các vấn đề này? Làm thể nào để các vấn đề có thể được giảm bớt hoặc được loại trừ? Đặc biệt là qua công tác tư vấn, làm thế nào để chúng ta có thể ngăn chặn được sự tái diễn của chúng, và chúng ta có thể nhận được nhiều thông tin hơn từ đâu? Các chương sau sẽ tóm tắt sự dạy dỗ của Thánh Kinh về các chủ đề này và sẽ lôi cuốn nhiều sự nghiên cứu mới về tâm lý với nhiều sự khôn sáng.
TÂM LÝ HỌC CÓ THỂ GIÚP ĐƯỢC CHĂNG?
Để gia tăng hiệu quả công tác tư vấn của mình, nhiều nhà lãnh đạo Hội Thánh đã quay về lại với việc thừa nhận sự hiểu biết của những nhà tâm lý học và các giáo sư về sức khỏe thần kinh. Tâm lý học là một lãnh vực trừu tượng của sự nghiên cứu, nó giải thích về cách cư xử của con người và động vật. Trong khóa học mở đầu, các sinh viên đại học thuộc khoa tâm lý học tổng quát thường phải đương đầu với một mớ thuật ngữ kỹ thuật và thống kê, cùng các “dữ liệu mang tính khoa học” về hàng loạt các chủ đề dường như không có chút quan trọng nào cả. Những khóa học ở trường trong việc tư vấn mục vụ thường có xu thế làm cho người ta trở thành trung tâm và quan trọng hơn, nhưng ngay với cả các sinh viên ở đây (và đôi khi cả giáo sư nữa) cũng có thể đánh mất đi một trong các lý thuyết và những kỹ thuật tưởng như không hữu ích lắm khi ai đó đối diện với một người đang bị thương tổn và hoang mang.
Điều này đã khiến cho một số tác giả phản bác đối với môn tâm lý học, bao gồm cả lãnh vực tư vấn, và họ kết luận rằng Kinh Thánh là tất cả những gì cần thiết mà người tư vấn Cơ Đốc có được để giúp đỡ những người khác. “Cơ Đốc Nhân thật không pha trộn giữa giáo lý Cơ Đốc với tâm lý học”, một tác giả mới đây đã nói như thế. 34 “Đức Chúa Trời và Lời Ngài cung cấp một nền tảng đầy đủ trọn vẹn cho thể chất nhạy cảm về thần kinh,” một tác giả khác đã viết như vậy. Kinh Thánh là nơi chứa đựng tất cả các tác nhân làm xoa dịu và chữa lành đối với tất cả mọi mức độ nhạy cảm về thần kinh, mà không dựa trên một hệ thống căn bản nào.” 35 Jay Adams cho rằng, các chuyên gia tâm thần học (và có lẽ các nhà tâm lý học nữa) đã giành lấy công việc của các nhà truyền giáo, họ đang ở trong tình trạng chiếm giữ nguy hiểm để gắng sức làm thay đổi thái độ và giá trị của con người trong tình trạng không có Chúa. Khi nhận định về các Mục sư, Adams xác nhận “nhờ việc học Lời Đức Chúa Trời một cách cẩn thận và quan sát kỹ càng về những nguyên tắc mà Thánh Kinh miêu tả về người được bạn tư vấn..., bạn có thể gặt hái được tất cả mọi thông tin và kinh nghiệm mà bạn cần có để trở thành một nhà tư vấn Cơ Đốc đầy tự tin và tài giỏi, mà không cần đến bất cứ một sự nghiên cứu nào về tâm lý học.” 36 Rõ ràng, các tác giả này không có mấy hy vọng rằng tâm lý học hoặc các lãnh vực có liên quan trong việc nghiên cứu, sẽ có thể giúp Cơ Đốc Nhân tư vấn một cách có hiệu quả hơn.
Khi bạn đọc sang những trang kế tiếp, bạn sẽ thường xuyên tìm thấy nhiều sự tham khảo đối với Kinh Thánh. Lời Đức Chúa Trời là nơi chứa đựng tất cả các tác nhân làm xoa dịu và chữa lành đối với tất cả mọi mức độ nhạy cảm về thần kinh. Trong đó có đề cập đến con người ngày nay. Tất nhiên trong đó có cả mối liên quan sâu sắc và lâu dài trong công việc của người tư vấn với những nhu cầu của những người được tư vấn.
Thế nhưng Kinh Thánh chẳng bao giờ tuyên bố rằng mình có quyền để trở nên một cuốn sách giáo khoa về công tác tư vấn. Một cách chắc chắn, Kinh Thánh giải quyết được tất cả các nan đề như: sự cô đơn, sự thất vọng, các vấn đề về hôn nhân gia đình, nỗi đau, các mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, sự giận dữ, nỗi sợ hãi, và một số tình huống tư vấn khác; nhưng Kinh Thánh chẳng bao giờ có ý để trở nên sự mặc khải duy nhất của Đức Chúa Trời trong việc giúp đỡ người khác. Trong lãnh vực y khoa, việc giáo dục và các công tác hổ trợ khác mà “con người là trung tâm” nghiên cứu, chúng ta được phép để tìm hiểu nhiều điều về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời qua việc nghiên cứu về khoa học và lý thuyết. Như vậy thì tại sao tâm lý học lại không thể là một môn học riêng lẻ như là một lãnh vực nào đó mà nó không cần đến bất cứ thứ gì khác để chi phối công việc của người tư vấn?
Tương tự như một lãnh vực nghiên cứu, nghành tâm lý học có tuổi đời hình thành ít hơn một trăm năm tuổi. Trong suốt thế kỷ qua, Đức Chúa Trời đã cho phép các nhà tâm lý học phát triển cẩn thận những phương thức khảo cứu cho việc nghiên cứu thái độ của con người, cùng với các cuộc nghiên cứu chuyên nghiệp cho việc chia sẻ những tài liệu đã được phát hiện về lãnh vực này. Có lẽ khi có hàng trăm ngàn người đến và xin được giúp đỡ, thì các nhà tư vấn chuyên nghiệp đã học được cách có thể làm thay đổi người khác như thế nào, và khiến người khác hành xử theo cách của họ. Sự hiểu biết của chúng ta thật khó hoàn thiện được cũng như không thể nói là không có sai trật nào, nhưng sự nghiên cứu cẩn thận về tâm lý học và việc phân tích dữ liệu đã khiến cho một hồ chứa mênh mông những kết luận được biết đến nhằm mang lại sự giúp đỡ cho những người được tư vấn và cho cả những người nào muốn trở thành người giúp đỡ-người khác có hiệu quả. Ngay cả đối với những người có thể giải tỏa về lãnh vực tâm lý một cách thường xuyên, biết sử dụng các thuật ngữ về tâm lý học trong các tác phẩm của mình cách thành thạo, thì các kỹ thuật mang tính tâm lý cũng được rút ra qua việc tư vấn của họ.
Trong những chương tiếp theo, các tác phẩm của những nhà khoa học xã hội thường xuyên trích dẫn về các giả thuyết cho rằng mọi sự thật đều đến từ Đức Chúa Trời, bao gồm sự thật về con người do Đức Chúa Trời tạo dựng. Ngài đã giải bày sự thật này qua Kinh Thánh - là Lời được viết bởi Đức Chúa Trời cho con người, nhưng Ngài cũng đã cho phép chúng ta tìm hiểu sự thật qua kinh nghiệm và bằng các phương pháp nghiên cứu về khoa học. Sự thật được phát hiện phải luôn luôn nhất quán, và luôn được thử nghiệm với chuẩn mực sự thật mà Thánh Kinh tỏ bày. Thế nhưng hiệu quả tư vấn của chúng ta sẽ bị giới hạn khi chúng ta giả vờ tin rằng những phát hiện về tâm lý học chẳng là gì cả để tác động đến sự hiểu biết và giải pháp của các vấn đề. Chúng ta chấp nhận tính chất trung thực khi chúng ta công khai phản bác tâm lý học, nhưng sau đó lại tranh chiến với những quan niệm của nó trong sự tư vấn của chúng ta – thỉnh thoảng chúng ta thật cả tin và thậm chí không nhận ra chính điều mà chúng ta đang làm.
Hãy để tâm trí chúng ta chấp nhận sự thật rằng tâm lý học có thể là một sự giúp đỡ lớn lao đối với công tác tư vấn Cơ Đốc. 37 Kế đến, làm thế nào chúng ta có thể lội qua bãi lầy của kỹ năng, lý thuyết, và những thuật ngữ chuyên môn để tìm ra những sự khôn sáng mà chúng thật sự có ích? Câu trả lời liên quan đến việc tìm kiếm một người hướng dẫn cho chúng ta – một người nào đó hoặc một nhóm người kết ước theo chân Đức Chúa Jêsus-Christ, làm quen với văn hóa, tâm lý và việc tư vấn, được đào tạo về việc tư vấn, qua sự nghiên cứu các phương pháp (cũng như tính chính xác của khoa học trong việc đánh giá về những kết luận của các nhà tâm lý học), và mang lại hiệu quả cho những nhà tư vấn. Đó là sự quan trọng có tính quyết định cho những người tư vấn kết ước đối với nguồn cảm hứng và năng quyền của Kinh Thánh, cả hai đều có tiêu chuẩn trái ngược với tâm lý học; trong khi đó tâm lý học cần phải được thử nghiệm và phải đúng với Lời được viết ra từ Đức Chúa Trời, và tất cả sự tư vấn có giá trị phải thống nhất.
Các trang kế tiếp, và các băng từ cùng với quyển sách này, đều được chuẩn bị bởi nhiều người tư vấn, họ là những người có thể trợ giúp các nhà tư vấn Cơ Đốc trong sự vui mừng, thế nhưng nhiệm vụ đòi hỏi ở đây là phải giúp đỡ những người khác. Đây không phải là một quyển cẩm nang nội trợ, dạy về những công thức không bao giờ thay đổi và được thiết lập bởi các nhà tư vấn bậc thầy. Con người thì quá phức tạp để luôn được thay đổi, ngay cả với sự can thiệp của những nhà tư vấn tài giỏi nhất. Tất cả các nhà tư vấn đều có sự thất bại, thỉnh thoảng bởi vì họ thiếu khả năng, thiếu nhận thức hoặc bởi lỗi lầm nào đó; thường thì bởi người được tư vấn không thể hoặc sẽ không thay đổi. Thế nhưng những sự cải thiện sẽ hiệu quả hơn khi người tư vấn có một ít hiểu biết về các vấn đề và phải biết cần làm thế nào để can thiệp. Các chương kế tiếp được viết ra nhằm giúp đỡ để có được sự hiểu biết này và cung cấp một vài kiến thức cần thiết.
Tuy nhiên, trước khi chúng ta bắt đầu sự nghiên cứu này, chúng ta cần có một cái nhìn thấu đáo hơn về chính chúng ta, là những nhà tư vấn. Điều gì thúc đẩy chúng ta để trở thành những người giúp đỡ-người khác? Đâu là mối nguy cơ cho công việc tư vấn? Và tại sao quá nhiều nhà tư vấn bị kiệt sức dưới sức ép, khi cố gắng giúp đỡ những người đang bị thương tổn? Đây là những loại chủ đề mà chúng ta cần thảo luận trong chương kế tiếp.
Christian Couseling – Gary R. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Benner, David G. Psychotherapy and the Spiritual Quest. Grand Rapids, Mich.:
Baker,1988.
Bridges, Jerry. True Fellowship. Colorado Springs: NavPress,1985.
Collins, Gary R. Can You Trust Psychology? Downers Grove, Ill.. InterVarsity,
1988.
Getz, Gene A. Building Up One Another. Wheaton, Ill.: Victor Books,1976.
Kirwin, William T. Biblical Concepts for Christian Counseling. Grand Rapids,
Mich.: Baker,1984.
Miller, William R., and Kathleen A. Jackson. Practical Psychology for Pastors.
Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall 1985.
Trueblood, Elton. The Incendiary Fellowship. New York: Harper & Row,1967.