Tư Vấn Cơ Đốc
Tín hữu cũng như đồng bào trong cộng đồng hàng ngày phải đương đầu với vô số nan đề trong cuộc sống. Giúp họ đối phó với những nan đề đó là thách thức của Hội thánh. Nan đề trong xã hội hôm nay rất đa diện và ngày càng gia tăng: xung khắc trong trong hôn nhân, chán nản, lo âu, những bấp bênh trong nghề nghiệp, khó khăn tài chánh, nghiện ngập, người thân qua đời, bạo lực trong gia đình, tình trạng người ức hiếp người, nóng giận, những rối loạn liên quan đến tính dục, tác phong hay ẩm thực, xung đột tâm linh và nhiều nan đề khác. Những khó khăn này tạo áp lực trong cuộc sống khiến cho những nỗ lực đáp ứng có thể dẫn tới sợ hãi, lo lắng, phẫn nộ, mặc cảm mắc tội, hổ thẹn hoặc thất vọng. Mục sư hay các nhà tâm vấn có thể làm được gì để đáp ứng những nhu cầu gay gắt này?
Một trong những nhu cầu cấp bách của hội thánh Việt Nam hôm nay là phải đào tạo và trang bị thêm cho mục vụ chăm sóc con dân Chúa. Mục sư sẽ đối diện với muôn vàn khó khăn khi phải chăm sóc một bầy có nhiều chiên bị tổn thương. Công tác chăm sóc này cần san xẻ ra cho cho mọi Cơ-đốc nhân (Ga-la-ti 6:2; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:11, 14) nhưng đặc biệt là cho những người có ân tứ khuyên bảo và khích lệ (Rô-ma 12:8). Đức Thánh Linh cũng ban các ân tứ thuộc linh thích hợp khác như tri thức, khôn ngoan, chữa bịnh, phân biệt các thần (1 Cô-rinh-tô 12:8-10, 28), và lòng thương xót (Rô-ma 12:8). Chúa cũng kêu gọi chúng ta mang gánh nặng cho nhau (Ga-la-ti 6:2) và chăm sóc nhau bằng tình yêu vô điều kiện của Ngài (Giăng 13:34,35).
Chúng ta tin rằng Hội thánh của Chúa Cứu Thế Giê-xu là môi trường được Đức Chúa Trời chọn để đem lại thay đổi và chữa lành. Chúa Giê-xu cứu chuộc và đổi mới con dân Ngài bằng cách liên kết họ với Ngài. Qua đó Chúa cũng liên kết chúng ta với nhau để tạo nên một cộng đồng sinh động có sự đổi mới và tăng trưởng. Chúng ta tin rằng công tác tâm vấn cần phải là mục vụ mở rộng của hội thánh địa phương cho hội chúng cũng như cho cộng đồng.
Kinh Thánh cũng cho thấy con người phải đối diện với nhiều nan đề: lo âu, cô đơn, chán nản, nghi ngờ, ưu phiền, buồn bã, bạo lực, những lệch lạc về tình dục, cay đắng, nghèo đói, tham lam, ốm đau, các mối quan hệ căng thẳng, cùng nhiều vấn đề khác. Kinh Thánh nhiều lần xác nhận tầm quan trọng của việc tìm kiếm lời khuyên. Những lúc cần có sự khôn ngoan như khi hoạch định chương trình, lập kế hoạch, thì việc tìm kiếm Chúa hay hỏi ý một nhà tâm vấn là việc làm khôn ngoan (xem Thi Thiên 139:23-24; Châm Ngôn 11:14; 15:22; 20:18; Gia-cơ 1:5; Giăng 14:26). Đức Chúa Trời có thể xóa sạch mọi chán nản, ưu tư, rối loạn nội tâm, xung khắc giữa con người với nhau, nhưng Ngài thường hành động qua những con người giàu lòng trắc ẩn có ân tứ khích lệ, sáng suốt, và biết tâm vấn.
Điều quan trọng cần lưu ý là không phải mọi mục sư và bậc lãnh đạo Cơ-đốc khác đều có ơn trong lãnh vực này, hay đều được kêu gọi làm công tác tâm vấn. Do tính khí, sở thích, kỹ năng, đào tạo hoặc sự kêu gọi khác nhau, nên mỗi chúng ta cần phải thận trọng, tuy nhiên đừng vội từ chối mục vụ này là mục vụ làm cho chính đời sống mình phong phú, cũng là mục vụ đầy tiềm năng có nền tảng Kinh Thánh, để giúp đỡ người khác. Tâm vấn không dễ, nhưng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy con người từ nhiều bối cảnh khác nhau, đều có thể học kỹ năng tâm vấn hiệu quả. Đức Chúa Trời có thể sử dụng bạn làm nhà tâm vấn Cơ-đốc đem lại kết quả cho Ngài.
Kinh Thánh dạy rằng mọi tín nhân đều có chức năng tư tế (1 Phi-e-rơ 2: 5,9). Chúng ta phải là người phục vụ và là tư tế cho nhau. Vì vậy, lãnh vực phục vụ chính trong hội thánh là mục vụ và tâm vấn nghĩa là những tín hữu có ơn chăm sóc sẽ làm công tác mục vụ và những người biết tâm vấn giúp các tín hữu có nhu cầu.
Mục vụ chăm sóc và tâm vấn do tín hữu đảm trách có nền tảng Kinh thánh và ngày càng phát triển. Các cuộc nghiên cứu cho thấy các nhà tâm vấn là giáo hữu rất hiệu quả trong việc giúp những người có nan đề trong cuộc sống. Vậy làm cách nào chúng ta có thể thành lập các mục vụ tâm vấn và chăm sóc do tín hữu đảm trách? Làm sao để cấp lãnh đạo hội thánh có thể đào tạo và trang bị tín hữu làm công tác tâm vấn nghiệp dư và chuyên nghiệp hầu đáp ứng được nhu cầu này của hội thánh? Đây là những câu hỏi đầy thách thức đang đặt ra cho cấp lãnh đạo Cơ-đốc Việt Nam. Nhu cầu huấn luyện kỹ năng tâm vấn cho mục sư, tín hữu cũng như tâm vấn sức khỏe tâm thần chuyên nghiệp thật lớn lao và cấp bách, nhưng đáng tiếc là hiện chưa có chương trình nào trong trường thần học Việt Nam tập trung vào chức vụ tâm vấn mục vụ hoặc tâm vấn chuyên nghiệp. Ngay cả sách báo và nguồn tài liệu trong lãnh vực tâm vấn bằng tiếng Việt cũng còn rất thiếu thốn.
Đây là cuốn sách được viết để đáp ứng nhu cầu tâm vấn đang gia tăng trong các hội thánh Việt Nam. Chúng tôi viết dựa trên bối cảnh văn hóa và hội thánh Việt Nam nhằm cung cấp cho quí mục sư, những người làm công tác tâm vấn, và các học viên trường Kinh Thánh một số kiến thức và kỹ năng tâm vấn cơ bản. Chúng tôi hi vọng bạn sẽ thấy cuốn sách hứng thú, có giá trị và hữu ích.
Tuy đã cố gắng viết trong bối cảnh hội thánh Việt Nam với mong ước cuốn sách thích hợp và hữu dụng, nhưng chúng tôi hiểu sẽ còn nhiều điều cần phải cải tiến và sửa đổi. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của độc giả để khi tái bản sách được tốt hơn. Chúng tôi hi vọng và cầu xin Đức Chúa Trời dùng sách này khích lệ những người như bạn vận dụng khả năng tâm vấn giúp người có nan đề thay đổi được đời sống. Bạn có thể trở thành nhà tâm vấn Cơ-đốc hữu hiệu.
Gary R. Collins, PhD
Paul B. Lam, PhD
Nhu Cầu Tâm Vấn Cơ Đốc
Giữa lòng Âu Châu vào những thập niên cuối của thế kỷ 19, một y sĩ người Áo tên là Sigmund Freud khởi sự hành nghề bác sĩ phân tâm. Ông không phải là bác sĩ theo nghĩa thông thường vì ông tập chú vào việc phân tích các giấc mơ của bệnh nhân, dò tìm những bí ẩn riêng tư của họ rồi xây dựng nên những lý thuyết gây tranh luận về tác phong cũng như cách con người suy nghĩ.
Khởi đầu không mấy ai chú ý đến Freud vì ông không đi diễn thuyết, cũng không dạy môn nào trong đại học. Chỉ có một vài học giả đọc những bài viết của ông và một số ít người theo ông họp lại hàng tuần thảo luận những ý tưởng ông đề xuất. Vào thời đó, không một ai nghĩ rằng những lý thuyết của Freud có ngày được cả thế giới biết đến.
Freud viết về tiến trình phát triển con người, về những tác phong bất bình thường, về những giấc mơ và một lý thuyết tâm vấn gọi là phân tâm học. Ông cũng viết về tôn giáo và gợi ý rằng tín nhân là những người bất ổn về phương diện tâm lý. Hơn bất cứ điều gì khác, có lẽ những lời phê phán này đã khiến cho nhiều mục sư cũng như tín hữu trong hội thánh hoài nghi tâm lý học và cả ngành tâm vấn.
Tuy nhiên đối lại thái độ trên, người ta có thể lập luận rằng sinh hoạt tâm vấn đã khởi sự có trước Freud nhiều thế kỷ. Ê-li-hu đã làm tâm vấn cho Gióp trong cơn đau buồn. Một thiên sứ đến tâm vấn cho Ê-li lúc nhà tiên tri thấy ngã lòng và cô đơn trong sa mạc. Đa-ni-ên làm tâm vấn nhưng vua Nê-bu-cát-nết-sa không nghe nên đã trở nên điên loạn. Đa-vít chơi thụ cầm để Sau-lơ đang rối loạn cả tâm lý lẫn tâm linh được khuây khỏa. Chúa Giê-xu được mệnh danh là “Đấng mưu luận lạ lùng” và trong cả Tân Ước chúng ta thấy không thiếu gì những trường hợp cơ đốc nhân giúp đỡ, khuyên dạy, chăm sóc lẫn nhau. Nếu tìm đọc biên niên sử hội thánh bạn cũng sẽ khám phá ra rằng việc quan tâm khuyên bảo, hướng dẫn, làm tâm vấn vẫn là đặc trưng của những người lãnh đạo trong hội thánh từ thời các sứ đồ cho đến ngày nay.
Có lẽ bạn còn nhớ câu chuyện Giê-trô đến thăm Môi-se khi dân Do Thái hạ trại ở chân núi Hô-rếp sau khi ra khỏi Ai-cập ký thuật trong sách Xuất Ai-cập chương 18. Nhạc gia của Môi-se là Giê-trô vô cùng hứng khởi khi nghe kể về những điều Đức Chúa Trời đã làm cho tuyển dân. Hai cha con cùng thờ phượng Đức Chúa Trời rồi có lẽ họ trò chuyện với nhau thật khuya hôm đó. Nhưng sáng hôm sau, Môi-se dậy sớm, theo lệ thường ngồi suốt ngày nghe và giải quyết những trường hợp tranh tụng trong dân, và dạy họ lề luật Chúa. Cả ngày chứng kiến cảnh đó Giê-trô quá bức xúc, ông bảo Môi-se, “Việc con làm không tiện vì quá nặng, con không thể gánh một mình nổi.” Rồi Giê-trô đưa ra một đề nghị rất cấp tiến. Ông bảo Môi-se chọn trong dân những người “tài năng,
kính sợ Đức Chúa Trời, chân thật, ghét sự tham lợi” và giao cho những người đó giải quyết các vụ tranh tụng trong dân, chỉ những trường hợp khó khăn mới chuyển lên cho Môi-se.
Môi-se nghe lời khuyên và làm theo lời ông gia đề nghị. Khi tín hữu chia xẻ trách nhiệm giúp những người có nhu cầu thì “mục sư Môi-se” mới không quá đa đoan nhọc mệt và đỡ phải đổ quá nhiều sức lực vào việc giải quyết nan đề. Có thể dạng thức tâm vấn ban sơ này phần lớn liên quan đến các vấn đề pháp lý, nhưng có lẽ những khó khăn cá nhân, tư riêng cũng từng được nêu ra. Trong bối cảnh của vùng đất sa mạc thời cổ đại, chúng ta đã thấy một vài đặc điểm của công tác tâm vấn cơ đốc hữu hiệu do những người kính sợ Chúa, chân thật, bén nhạy thực hiện, và họ cũng sẵn lòng chuyển tiếp những trường hợp khó khăn lên cho những cố vấn kinh nghiệm hơn.
Ý Nghĩa Công Tác Tâm Vấn Cơ Đốc
Công tác tâm vấn là thể hiện mối quan tâm thật sự giữa ít nhất hai người, trong đó nhà tâm vấn (counselor) tìm cách giúp người được tâm vấn (counselee) đối phó và tiên liệu những khó khăn trong cuộc sống. Trong công tác này nhà tâm vấn Cơ-đốc tìm cách áp dụng các nguyên tắc khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh để giải quyết nan đề. Công tác tâm vấn có thể có nhiều mục tiêu khác nhau mà chỉ có một số có thể áp dụng trong bất cứ tình huống tâm vấn nào. Tùy hoàn cảnh, người tâm vấn có thể tập chú vào việc giúp đối tượng
• thay đổi thái độ, hành động hay giá trị
• học những kỹ năng như cách kết thân, truyền đạt, học hành hay cách cầu nguyện.
• nhận định và diễn đạt cảm xúc như lo lắng, sợ hãi, cô đơn hay giận dữ.
• hiểu nguyên nhân nan đề của mình
• nhận trách nhiệm phải thay đổi tác phong và thái độ.
• ý thức tội lỗi, xưng ra và kinh nghiệm sự tha thứ của Đức Chúa Trời
• có những quyết định khôn ngoan
• chấp nhận sự giúp đỡ hay khích lệ của người khác, và đôi khi cũng có thể hỗ trợ người khác.
• nhận ra và có hành động đối phó với những nan đề có thể xuất hiện trong tương lai; và
• học cách tăng trưởng như một môn đồ của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Tính Cách Độc Đáo của Ngành Tâm Vấn Cơ Đốc
Trong vòng những năm gần đây tính chất quan trọng và hữu hiệu của tâm vấn ngày càng phổ biến trong các nước trên toàn thế giới. Đây cũng là một thực tại ở Việt nam cũng như trong các cộng động Việt nam ly hương.
Ỡ đây cũng như các nơi khác, Cơ-đốc nhân thường có những cơ hội rất đặc biệt giúp đỡ lẫn nhau. Tín hữu cũng như những người lãnh đạo trong các hội thánh thường quen biết khá rõ gia đình riêng và bối cảnh cộng đồng của người có nhu cầu tâm vấn. Không như những nhà tâm vấn chuyên nghiệp làm việc trong văn phòng cách biệt, các mục sư cũng như tín hữu làm tâm vấn được tự do đến nhà riêng thăm viếng và bất cứ ai có nhu cầu thì thông thường các bạn thân của người đó sẵn sàng đáp ứng nhanh chóng với các phương tiện thuộc linh sẵn có như đọc Kinh thánh, cầu nguyện. Là người quan tâm đến các vấn đề tâm linh, nhà tâm vấn cơ đốc có thể trở thành một nguồn trợ giúp đặc biệt cho những người quan tâm đến Đức Chúa Trời, đến các vấn đề giá trị, tội lỗi, sự tha thứ, tình trạng mắc tội, ý nghĩa đời sống và sự chết cùng những vấn nạn tôn giáo khác.
Tâm vấn Cơ đốc độc đáo ở ít nhất ba phương diện sau. Trước hết có một số điều cơ đốc nhân coi là đương nhiên về sự sống và vũ trụ. Thí dụ như chúng ta nhận rằng Đức Chúa Trời hiện hữu và Ngài giao tiếp với chúng ta; Ngài cũng là Đấng tạo dựng và bảo tồn vũ trụ bằng năng quyền của Ngài (Hy-bá 1: 1-3); Ngài tạo dựng con người và để chúng ta tự do ngay cả trong việc phạm tội cũng như trong kinh nghiệm nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời ( Giăng 1: 8-9); chúng ta cũng nhận rằng Chúa Cứu Thế đã chết vì tội chúng ta, đã phục sinh và hiện nay đang sống trên thiên đàng, làm trung bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người như chúng ta (Hy-bá 7: 24-25; I Ti-mô-thê 2: 4-6).
Vì những tín niệm đó, là Cơ đốc nhân có một quan điểm độc đáo về thế giới và những nan đề trên trần gian. Chúng ta không đồng ý với Erich Fromm, một nhà phân tâm học nổi tiếng, từng tuyên bố rằng loài người “cô đơn trong một vũ trụ hoàn toàn lãnh đạm với số phận con người.” Thay vào đó, chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời biết chúng ta, quan tâm săn sóc chúng ta, nghe lời cầu nguyện của chúng ta và giúp chúng ta đối phó với nan đề.
Điểm độc đáo thứ hai của tâm vấn Cơ-đốc liên quan đến mục tiêu. Trong lãnh vực tâm vấn, tín hữu cũng như người chưa tin có một số mục tiêu tương tự. Tất cả chúng ta đều muốn giúp người khác đối diện nan đề và giải quyết nan đề, sống thuận thảo với mọi người, học cách đối phó với các khủng hoảng, thay đổi những thái độ hay tác phong có hại, và tìm phương cách có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nhà tâm vấn Cơ-đốc cũng quan tâm đến việc giới thiệu sứ điệp tin lành và khích lệ người hỏi ký thác đời sống mình cho Chúa Cứu Thế Giê-xu, giúp họ ý thức và ăn năn tội để có thể kinh nghiệm ơn tha thứ của Đức Chúa Trời. Nhà tâm vấn khích lệ và giúp người được tâm vấn tăng trưởng trong đời sống tâm linh; khéo léo thách thức để họ dám thể hiện cuộc sống dựa trên căn bản Kinh Thánh thay vì theo tiêu chuẩn của xã hội đời thường. Nhà tâm vấn Cơ-đốc cũng phải là người có mục tiêu sống nêu gương làm môn đệ Chúa Cứu Thế Giê-xu (I Cô-rinh-tô 11: 1) và cũng như Ti-mô-thê, họ phải nêu gương trong lời nói, nết làm, trong tình yêu thương, trong đức tin và sự tinh sạch (I Ti-mô-thê 4: 12).
Thứ ba, nhà tâm vấn Cơ-đốc có những phương pháp làm việc đặc thù và trong chương ba, chúng ta sẽ bàn về một số kỹ thuật tâm vấn Cơ-đốc hữu hiệu. Chúng ta sẽ thấy các nhà tâm vấn Cơ-đốc lẫn không Cơ-đốc đều nhấn mạnh đến kỹ năng nghe, đặt câu hỏi, khích lệ hay đặt thẳng vấn đề và những phương pháp tâm vấn khác. Nhưng các nhà tâm vấn Cơ-đốc độc đáo hơn ở chỗ không dùng bất cứ phương pháp nào bị coi là vô luân hay có bất cứ khía cạnh nào không phù hợp với các tiêu chuẩn Kinh Thánh. Hơn nữa, không như các cố vấn thế tục, nhà tâm vấn Cơ-đốc dùng sự cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, việc tham gia các nhóm sinh hoạt trong hội thánh vàviệc thực hành những tập quán cơ đốc khác có thể đem khích lệ hữu ích cho người được tâm vấn (counselee).
Sứ đồ Phao-lô từng viết vắn tắt về mục tiêu đời sống ông, đó cũng là lý do ông chiến đấu và hoạt động và đây cũng là một chỉ dẫn hữu ích cho các nhà tâm vấn Cơ-đốc hôm nay:
“Ấy là Ngài mà chúng tôi rao giảng, lấy mọi sự khôn ngoan răn bảo mọi người, dạy dỗ mọi người, hầu cho bầy tỏ mọi người trở nên trọn vẹn trong Chúa Cứu Thế ra trước mặt Đức Chúa Trời. Ấy cũng nhờ đó mà chúng tôi làm việc, nhờ sức Ngài giúp đỡ mà chiến đấu, là sức hành động cách có quyền trong tôi” (Cô-lô-se 1: 28-29)
Giới Răn Trọng Yếu, Đại Mạng Lệnh và Tâm Vấn Cơ Đốc
Trong hơn ba năm giảng đạo, Chúa Giê-xu đã tóm lược giáo huấn của Ngài trong nhiều cơ hội khác nhau. Thí dụ như khi trả lời câu hỏi của một luật gia, Chúa Giê-xu nói đến hai “giới răn trọng yếu” là kim chỉ nam cho Cơ-đốc nhân suốt qua bao nhiêu thế kỷ, và ngay trước khi về trời, Chúa cũng đã ban hành “đại mạng lệnh.”
Hai giới răn trọng yếu được trích dẫn từ trong Cựu ước mà giới răn thứ nhất là: “hết lòng, hết linh hồn, hết trí, hết sức kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi” và giới răn thứ hai là “yêu người lân cận như mình.” Chúa cũng nói thêm, bảo rằng không có giới răn nào lớn hơn hai điều đó (Mác 12: 30, 31).
Đại mạng lịnh truyền bảo Cơ-đốc nhân đi đào tạo môn đệ khắp các nước, làm báp-tem cho họ nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh và dạy họ tuân giữ mọi điều Chúa Cứu Thế đã truyền dạy. Chúa Giê-xu bảo đảm với các môn đệ rằng Ngài có đủ mọi quyền lực và Ngài hứa ở cùng chúng ta luôn luôn, dù chúng ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt (Ma-thi-ơ 28: 18-20).
Có người bảo Chúa Giê-xu khởi đầu mục vụ bằng cách gọi Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng trở thành môn đệ, khi kết thúc, Ngài công bố đại mạng lệnh truyền bảo chúng ta đào tạo môn đệ, còn trong khoảng giữa, Chúa thể hiện giới răn trọng yếu bằng việc dạy con người phương cách trở thành môn đệ. Để thực hiện, Chúa đã tiếp cận con người bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều lúc Ngài dạy, có khi lắng nghe, giảng, biện giải, khích lệ, lên án, và bày tỏ cho mọi người thấy làm con cái Đức Chúa Trời là như thế nào. Ngài trò chuyện với người ở nhàriêng, trong đường phố, ở nơi thờ phượng, trong bữa ăn, trong đám tang, và lúc con người trên giường bệnh. Có lẽ không có hai người nào được Chúa tiếp cận cùng một cách. Chúa biết rõ những khác biệt của mọi người trong cá tính, nhu cầu, mức độ hiểu biết, và Ngài đối đãi với mỗi người theo cách riêng.
Khi con người có nhu cầu tâm vấn, họ thường không quan tâm đến những việc thuộc linh hay nghe giảng luận. Giống như những người đến với Chúa Giê-xu, họ có nhu cầu khẩn thiết cần được đáp ứng hay nan đề cần giải quyết. Thông thường, họ cần được đối đãi nhân từ, cần được khích lệ, hướng dẫn hay chữa lành. Trách nhiệm nhà tâm vấn là gặp gỡ đối tượng đúng vào lúc họ có nhu cầu.
Tuy nhiên chúng ta không bao giờ nên quên rằng giới răn trọng yếu và đại mạng lệnh vẫn áp dụng cho tín hữu ngày nay. Chúa vẫn truyền bảo chúng ta yêu kính Ngài, yêu mến và đối xử với người lân cận như với chính mình, phải làm môn đệ Chúa Cứu Thế Giê-xu cũng như đào tạo tha nhân thành môn đệ Chúa bằng lời chứng và lời dạy. Chúng ta không thể bỏ qua những giáo huấn này trong khi thực hành tâm vấn. Giới răn trọng yếu và đại mạng lệnh là lệnh lên đường cho tất cả những ai theo chân Chúa Cứu Thế.
Đã xét những điều trên, chúng ta thấy cũng cần nghĩ đến công việc của các y sĩ Cơ-đốc. Như mọi người khác, những người trong ngành y cũng có bổn phận tuân thủ giới răn trọng yếu và thực hành đại mạng lệnh; tuy nhiên trong phòng cấp cứu, không bác sĩ nào mở Kinh thánh ra giảng, nhưng khởi đầu xem xét những chỗ đau đớn của bệnh nhân. Bác sĩ sẽ thể hiện tình yêu của Chúa Cứu Thế bằng cách bày tỏ lòng quan tâm và tận tình làm mọi điều cần thiết để giảm bớt đau đớn cho bệnh nhân và giúp sớm bình phục. Làm như vậy không có nghĩa là bác sĩ tránh né nói đến các vấn đề tâm linh nhưng chỉ có nghĩa là việc chữa bệnh được nhấn mạnh. Y sĩ là Cơ-đốc nhân biết rằng làm giảm bớt đau đớn là việc làm tôn vinh Chúa Cứu Thế và đó thường là một bước tiến quan trọng cho việc chứng đạo (Châm Ngôn 14: 31; Ma-thi-ơ 10: 42)
Giống như nhiều bác sĩ, một số cố vấn tâm lý hoàn toàn bỏ qua vấn đề tâm linh, không đề cập gì đến Chúa Cứu Thế trong suốt thời gian hướng dẫn và đây là một bất công nghiêm trọng đối với người được tâm vấn. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nói thêm rằng ngay cả khi vấn đề tâm linh được nhắc đến thì cũng quá bất ngờ, ngắn ngủi và vội vàng. Người tư vấn cần bén nhạy với sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh, tin rằng Ngài sẽ cho chúng ta biết thời điểm và cách thức bàn đến vấn đề tâm linh. Những người cần tâm vấn rất phức tạp, có nhiều nhu cầu về thể xác, tâm lý và tâm linh vì thế chúng ta không nên chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh mà bỏ qua lãnh vực tâm lý và thể xác, hoặc chỉ chú trọng đến tâm lý hay y khoa, coi như vấn đề tâm linh không liên quan hoặc không quan trọng. Giới răn trọng yếu và đại mạng lệnh dạy chúng ta phải tập chú vào toàn thể con người với mọi loại nhu cầu.
Ngành Tâm Lý Thế Tục Và Tâm Vấn Cơ Đốc
Có một số bằng chứng cho thấy chúng ta đang sống trong một cuộc bùng nổ trên toàn thế giới về ngành tâm lý. Sách báo, học trình đại học, những công trình nghiên cứu, các khoá hội thảo, các bài tường trình trên các báo hay tạp chí – tất cả cho thấy tâm lý học hiện đang trở thành một hiện tượng toàn cầu. Tâm lý học là nền tảng của ngành tâm vấn nhưng cũng là một sức mạnh rất có ảnh hưởng đến các phương pháp dạy trẻ, củng cố gia đình, thương nghiệp, kiến trúc, văn chương, hoạch định đô thị, kinh tế và ngay cả nông nghiệp, chính trị và bang giao quốc tế.
Cơ-đốc nhân phản ứng với hiện tượng này như thế nào? Chúng hoàn toàn chấp nhận và không phê phán các giáo huấn của ngành tâm lý? Chúng ta phản ứng chống lại ngành tâm lý hiện đại như thế hệ cha ông chúng ta chống lại ảnh hưởng của Freud? Hay chúng ta cố gắng tiếp thu từ các kết luận của ngành tâm lý rồi tìm cách áp dụng một số các kết luận đó trong công việc hội thánh?
Rõ ràng là chúng ta không thể bưng tai nhắm mắt đối với ngành tâm lý và coi như không có. Đức Chúa Trời vô cùng khôn sáng đã cho phép các nhà tâm lý khám phá ra nhiều dữ kiện hữu ích về cách thức con người hành động, suy nghĩ và giải quyết các nan đề. Tất nhiên, những kiến thức này còn rất thô sơ và còn nhiều sai lầm nhưng ngay cả những người phê phán ngành tâm lý, cố ý bỏ qua ảnh hưởng của nó cũng vẫn thường dùng những từ liệu tâm lý trong khi truyền đạt và dùng các phương pháp tâm lý trong công tác tâm vấn. Vì vậy, thay vì loại trừ ngành tâm lý, chúng ta nên học hỏi và chấp nhận những gì đã được minh chứng là có hiệu quả, phù hợp với các lời dạy của Kinh thánh và bỏ qua phần còn lại.
Trong những thập niên qua kể từ thời của Freud, người ta đã đưa ra nhiều thuyết tâm lý về tâm vấn. Tóm lược tất cả những lý thuyết đó không phải là việc dễ dàng, tuy nhiên, chúng ta có thể chia ra làm ba nhóm.
Nhóm thứ nhất là những phương pháp tâm vấn chỉ đạo. Đối với phương pháp này, nhà tâm vấn (counselor) được coi là một chuyên gia phân tích nan đề, quyết định giải pháp, rồi truyền đạt những giải pháp này cho người được/cần tâm vấn (counselee). Người này đến xin lời khuyên và được chỉ bảo phải làm những gì để vấn đề sáng sủa hơn. Phương pháp này đặt nặng trách nhiệm trên nhà tư vấn và thường rất khó có thể thực sự biết làm thế nào để giúp người khác.
Tương phản với phương pháp trên là phương pháp tâm vấn cho phép. Phương pháp này giả định rằng người được tâm vấn có thể tự giải quyết nan đề nếu họ được tự do và cơ hội suy nghĩ, tìm hiểu cặn kẽ vấn đề. Vì vậy, nhà tâm vấn không làm công việc chẩn đoán, đề nghị giải pháp hay phương thức trị liệu mà thay vào đó nhà tâm vấn cẩn thận lắng nghe, thỉnh thoảng tóm lược lại những gì mới nghe, tạo một mối quan tâm thực sự qua đó giúp người được tâm vấn diễn đạt được xúc cảm của mình và lần hồi có thể tự tìm ra giải pháp cho nan đề của mình.
Thứ ba là phương pháp tương tác hay trao đổi (interactional approaches) qua đó nhà tâm vấn và người được tâm vấn đứng ở vị trí tương đối bình đẳng, cùng thảo luận giải pháp cho nan đề cần giải quyết.
Ba phương thức trên phản ánh rõ ràng những khác biệt văn hoá. Trong những xã hội tôn trọng thẩm quyền và kính trọng thành phần trưởng thượng, phương thức chỉ thị có chiều hướng phổ thông nhất, còn trong những xã hội phóng khoáng hơn, người ta thường thấy phương thức thứ hai và thứ ba được áp dụng.
Như vậy phương pháp nào đúng? Có thể là cả ba đều đúng tùy theo nan đề, tùy mong đợi của người cần tâm vấn và tùy thuộc cá tính của nhà tâm vấn. Đôi khi Chúa Giê-xu rất thẳng tay và cứng rắn với đám lãnh đạo giáo quyền địa phương, nhưng Ngài lại dễ dãi hơn với hai môn đồ trên đường Em-ma-út, để họ tự do thổ lộ tâm trạng rồi Ngài khuyên dạy họ. Chúa Giê-xu đàm luận những vấn đề cao siêu với luật sư Ni-cơ-đem, ôn tồn nói với người phụ nữ rờ gấu áo Chúa để mong được lành bịnh. Có lẽ Ngài cũng ẵm bồng con trẻ đem đến cho Ngài và tất nhiên, Ngài cũng đã dành riêng nhiều buổi ân cần khuyên dạy các môn đệ.
Trong những năm gần đây một số cơ đốc nhân chân thành đề xuất những lý thuyết riêng của họ về tâm vấn Cơ-đốc. Nhiều phương pháp rất hữu dụng nhưng có một số cứng ngắc vàtrình bày chủ quan coi là đúng và có thẩm quyền y như Kinh Thánh.
Là Cơ-đốc nhân, chúng ta cần nhớ rằng Đức Chúa Trời tạo dựng mỗi người khác nhau. Ngài cho chúng ta sử dụng những phương thức khác nhau để giúp đỡ lẫn nhau. Tất nhiên chúng ta cần luôn luôn nỗ lực cố vấn bằng những phương cách tôn cao Chúa Cứu Thế và phù hợp với các giáo huấn trong Kinh Thánh. Chúng ta cũng cần tránh chỉ trích phương pháp của người khác vàcũng nên tránh tuyên bố (như một vài người) rằng “chỉ có phương pháp của tôi mới đúng Kinh Thánh.” Lối suy nghĩ kiêu hãnh và thiếu tế nhị đó thường cản trở cho chức vụ tâm vấn Cơ-đốc, làm tổn hại người được tâm vấn và không tôn cao Chúa Cứu Thế.
Hội Thánh và Tâm Vấn Cơ Đốc
Trong Tân Ước, hội thánh được được mô tả là một cộng đồng tín hữu cam kết theo Chúa Cứu Thế Giê-xu. Tín hữu là những người thành tâm thờ phượng, cầu nguyện, làm chứng tá, dạy đạo và khích lệ lẫn nhau. Chúa Giê-xu bảo rằng sống yêu thương là đặc điểm nổi bật nhất của họ (Giăng 13: 35)
Một trong những công tác chính của hội thánh là giúp người, “Đức Chúa Trời đã sắp đặt thân người để chi thể nào thiếu thốn thì được quí trọng hơn, hầu cho trong thân không có sự phân rẽ, mà các chi thể phải đồng lo tưởng đến nhau. Lại trong các chi thể khi có một cái nào chịu đau đớn, thì các cái khác đều cùng chịu, và khi một cái nào được tôn trọng, thì các cái khác đều cùng vui mừng. Anh em là thân của Chúa Cứu Thế và mỗi người là một phần của thân thể ấy” (I Cô-rinh-tô 12: 24-27). Theo chương trình của Đức Chúa Trời, hội thánh phải là một thân thể hiệp nhất bao gồm các tín hữu là những người đươc ban quyền năng Thánh Linh và cam kết giúp đỡ những người khác cả trong lẫn ngoài hội thánh.
Các cơ đốc nhân thờ phượng Chúa trong hội thánh không nhất thiết giống nhau. Một số các phân đoạn trong Tân Ươc như Rô-ma 12, I Cô-rinh-tô 12, Ê-phê-sô 4 cho biết tín hữu được phú ban những ân tứ đặc biệt. Thí dụ như có người được ban khả năng giảng hay dạy, người khác có ơn giúp đỡ hay quản trị, điều hành. Có những ân tứ trội hơn những ân tứ khác, nhưng tất cả đều quan trọng và cần thiết.
Theo Ê-phê-sô 4: 12-16, các ân tứ do Đức Thánh Linh ban có hai mục đích. Trước hết, đó là những trang bị cần thiết cho cá nhân tín hữu để phục vụ Chúa. Thứ hai, các ân tứ được dùng xây dựng và củng cố toàn hội thánh để các thuộc viên hiệp một, trưởng thành, chống lại những trào lưu chóng tàn hay các loại triết lý sống.
Một số học giả Kinh thánh coi tâm vấn là một trong những ân tứ thuộc linh – nghĩa là khả năng đặc biệt Đức Chúa Trời ban cho tín hữu với mục đích xây dựng hội thánh và gia tăng sức mạnh cá nhân. Rô-ma 12: 8 nói đến ân tứ khuyên bảo. Từ Hi-lạp paraklesis có nghĩa là “đến bên cạnh để giúp đỡ.” Từ liệu này hàm ý chỉ những hành động như an ủi, hỗ trợ , khích lệ, và khuyên bảo. Tất cả những điều này nghe ra giống như công tác tâm vấn.
Tuy nhiên, dù chỉ một số người đặc biệt có ơn tứ trong lãnh vực này nhưng tất cả các tín hữu đều có trách nhiệm giúp người khác. Trong thư Gia-cơ, chúng ta được nhắc nhở nhiều lần rằng đức tin của chúng ta là đức tin chết nếu nó không tự thể hiện trong mối quan tâm thực tế đối với nhu cầu người khác. Đây là khái niệm được nhấn mạnh suốt cả Tân ước. Tất cả chúng ta được truyền dạy phải gây dựng người khác, khuyên bảo lẫn nhau, giúp đỡ người yếu đuối, và nhẫn nhịn với mọi người xung quanh (Tê-sa-lô-ni-ca 5: 11,14). Tất cả những người có sự sống thiêng liêng đều có trách nhiệm phục hồi những người sẩy chân ngã vào tội lỗi, trách nhiệm mang gánh nặng cho nhau và làm lành cho cho mọi người, cả trong lẫn ngoài hội thánh (Ga-la-ti 6; 1-2, 10). Dân Chúa phải có lòng thương cảm, hiền lành, khiêm nhường, dịu dàng, kiên nhẫn, yêu thương và luôn luôn sẵn sàng tha thứ (Cô-lô-se 3: 12-14). Hiển nhiên, cơ đốc nhân có trách nhiệm đến với người khác, yêu thương lẫn nhau và tư vấn cơ đốc là một trong những phương cách thể hiện trách nhiệm đó.
Chúng ta đến với người khác bằng cách nào? Làm sao để trở thành người tâm vấn? Tâm vấn Cơ-đốc là làm những gì? Làm thế nào chúng ta có thể thực sự giúp người khác? Đây là những câu hỏi quan trọng, là căn bản trong các học trình tâm vấn tại đại học. Một số người trong đó có cả Cơ-đốc nhân đã theo học những chương trình này, được huấn luyện chu đáo và trở thành những cố vấn chuyên nghiệp, các nhà tâm lý hay phân tâm học. Đây là những nhà chuyên môn có thể giúp được những người có nan đề đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên, để có thể giúp người khác, bạn không nhất thiết phải trở thành nhà tâm vấn chuyên nghiệp. Số người chuyên môn không nhiều và cũng không có bằng chứng khoa học nào xác định rằng họ hữu hiệu hơn những người không chuyên. Nhiều mục sư cũng như tín hữu là những người biết Chúa rõ, mong muốn được Chúa dùng để giúp người khác có thể làm công tác tâm vấn rất hữu hiệu. Làm thế nào trở thành người cố vấn có hiệu năng là chủ đề chính của những chương kế tiếp.
Tín hữu cũng như đồng bào trong cộng đồng hàng ngày phải đương đầu với vô số nan đề trong cuộc sống. Giúp họ đối phó với những nan đề đó là thách thức của Hội thánh. Nan đề trong xã hội hôm nay rất đa diện và ngày càng gia tăng: xung khắc trong trong hôn nhân, chán nản, lo âu, những bấp bênh trong nghề nghiệp, khó khăn tài chánh, nghiện ngập, người thân qua đời, bạo lực trong gia đình, tình trạng người ức hiếp người, nóng giận, những rối loạn liên quan đến tính dục, tác phong hay ẩm thực, xung đột tâm linh và nhiều nan đề khác. Những khó khăn này tạo áp lực trong cuộc sống khiến cho những nỗ lực đáp ứng có thể dẫn tới sợ hãi, lo lắng, phẫn nộ, mặc cảm mắc tội, hổ thẹn hoặc thất vọng. Mục sư hay các nhà tâm vấn có thể làm được gì để đáp ứng những nhu cầu gay gắt này?
Một trong những nhu cầu cấp bách của hội thánh Việt Nam hôm nay là phải đào tạo và trang bị thêm cho mục vụ chăm sóc con dân Chúa. Mục sư sẽ đối diện với muôn vàn khó khăn khi phải chăm sóc một bầy có nhiều chiên bị tổn thương. Công tác chăm sóc này cần san xẻ ra cho cho mọi Cơ-đốc nhân (Ga-la-ti 6:2; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:11, 14) nhưng đặc biệt là cho những người có ân tứ khuyên bảo và khích lệ (Rô-ma 12:8). Đức Thánh Linh cũng ban các ân tứ thuộc linh thích hợp khác như tri thức, khôn ngoan, chữa bịnh, phân biệt các thần (1 Cô-rinh-tô 12:8-10, 28), và lòng thương xót (Rô-ma 12:8). Chúa cũng kêu gọi chúng ta mang gánh nặng cho nhau (Ga-la-ti 6:2) và chăm sóc nhau bằng tình yêu vô điều kiện của Ngài (Giăng 13:34,35).
Chúng ta tin rằng Hội thánh của Chúa Cứu Thế Giê-xu là môi trường được Đức Chúa Trời chọn để đem lại thay đổi và chữa lành. Chúa Giê-xu cứu chuộc và đổi mới con dân Ngài bằng cách liên kết họ với Ngài. Qua đó Chúa cũng liên kết chúng ta với nhau để tạo nên một cộng đồng sinh động có sự đổi mới và tăng trưởng. Chúng ta tin rằng công tác tâm vấn cần phải là mục vụ mở rộng của hội thánh địa phương cho hội chúng cũng như cho cộng đồng.
Kinh Thánh cũng cho thấy con người phải đối diện với nhiều nan đề: lo âu, cô đơn, chán nản, nghi ngờ, ưu phiền, buồn bã, bạo lực, những lệch lạc về tình dục, cay đắng, nghèo đói, tham lam, ốm đau, các mối quan hệ căng thẳng, cùng nhiều vấn đề khác. Kinh Thánh nhiều lần xác nhận tầm quan trọng của việc tìm kiếm lời khuyên. Những lúc cần có sự khôn ngoan như khi hoạch định chương trình, lập kế hoạch, thì việc tìm kiếm Chúa hay hỏi ý một nhà tâm vấn là việc làm khôn ngoan (xem Thi Thiên 139:23-24; Châm Ngôn 11:14; 15:22; 20:18; Gia-cơ 1:5; Giăng 14:26). Đức Chúa Trời có thể xóa sạch mọi chán nản, ưu tư, rối loạn nội tâm, xung khắc giữa con người với nhau, nhưng Ngài thường hành động qua những con người giàu lòng trắc ẩn có ân tứ khích lệ, sáng suốt, và biết tâm vấn.
Điều quan trọng cần lưu ý là không phải mọi mục sư và bậc lãnh đạo Cơ-đốc khác đều có ơn trong lãnh vực này, hay đều được kêu gọi làm công tác tâm vấn. Do tính khí, sở thích, kỹ năng, đào tạo hoặc sự kêu gọi khác nhau, nên mỗi chúng ta cần phải thận trọng, tuy nhiên đừng vội từ chối mục vụ này là mục vụ làm cho chính đời sống mình phong phú, cũng là mục vụ đầy tiềm năng có nền tảng Kinh Thánh, để giúp đỡ người khác. Tâm vấn không dễ, nhưng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy con người từ nhiều bối cảnh khác nhau, đều có thể học kỹ năng tâm vấn hiệu quả. Đức Chúa Trời có thể sử dụng bạn làm nhà tâm vấn Cơ-đốc đem lại kết quả cho Ngài.
Kinh Thánh dạy rằng mọi tín nhân đều có chức năng tư tế (1 Phi-e-rơ 2: 5,9). Chúng ta phải là người phục vụ và là tư tế cho nhau. Vì vậy, lãnh vực phục vụ chính trong hội thánh là mục vụ và tâm vấn nghĩa là những tín hữu có ơn chăm sóc sẽ làm công tác mục vụ và những người biết tâm vấn giúp các tín hữu có nhu cầu.
Mục vụ chăm sóc và tâm vấn do tín hữu đảm trách có nền tảng Kinh thánh và ngày càng phát triển. Các cuộc nghiên cứu cho thấy các nhà tâm vấn là giáo hữu rất hiệu quả trong việc giúp những người có nan đề trong cuộc sống. Vậy làm cách nào chúng ta có thể thành lập các mục vụ tâm vấn và chăm sóc do tín hữu đảm trách? Làm sao để cấp lãnh đạo hội thánh có thể đào tạo và trang bị tín hữu làm công tác tâm vấn nghiệp dư và chuyên nghiệp hầu đáp ứng được nhu cầu này của hội thánh? Đây là những câu hỏi đầy thách thức đang đặt ra cho cấp lãnh đạo Cơ-đốc Việt Nam. Nhu cầu huấn luyện kỹ năng tâm vấn cho mục sư, tín hữu cũng như tâm vấn sức khỏe tâm thần chuyên nghiệp thật lớn lao và cấp bách, nhưng đáng tiếc là hiện chưa có chương trình nào trong trường thần học Việt Nam tập trung vào chức vụ tâm vấn mục vụ hoặc tâm vấn chuyên nghiệp. Ngay cả sách báo và nguồn tài liệu trong lãnh vực tâm vấn bằng tiếng Việt cũng còn rất thiếu thốn.
Đây là cuốn sách được viết để đáp ứng nhu cầu tâm vấn đang gia tăng trong các hội thánh Việt Nam. Chúng tôi viết dựa trên bối cảnh văn hóa và hội thánh Việt Nam nhằm cung cấp cho quí mục sư, những người làm công tác tâm vấn, và các học viên trường Kinh Thánh một số kiến thức và kỹ năng tâm vấn cơ bản. Chúng tôi hi vọng bạn sẽ thấy cuốn sách hứng thú, có giá trị và hữu ích.
Tuy đã cố gắng viết trong bối cảnh hội thánh Việt Nam với mong ước cuốn sách thích hợp và hữu dụng, nhưng chúng tôi hiểu sẽ còn nhiều điều cần phải cải tiến và sửa đổi. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của độc giả để khi tái bản sách được tốt hơn. Chúng tôi hi vọng và cầu xin Đức Chúa Trời dùng sách này khích lệ những người như bạn vận dụng khả năng tâm vấn giúp người có nan đề thay đổi được đời sống. Bạn có thể trở thành nhà tâm vấn Cơ-đốc hữu hiệu.
Gary R. Collins, PhD
Paul B. Lam, PhD
Nhu Cầu Tâm Vấn Cơ Đốc
Giữa lòng Âu Châu vào những thập niên cuối của thế kỷ 19, một y sĩ người Áo tên là Sigmund Freud khởi sự hành nghề bác sĩ phân tâm. Ông không phải là bác sĩ theo nghĩa thông thường vì ông tập chú vào việc phân tích các giấc mơ của bệnh nhân, dò tìm những bí ẩn riêng tư của họ rồi xây dựng nên những lý thuyết gây tranh luận về tác phong cũng như cách con người suy nghĩ.
Khởi đầu không mấy ai chú ý đến Freud vì ông không đi diễn thuyết, cũng không dạy môn nào trong đại học. Chỉ có một vài học giả đọc những bài viết của ông và một số ít người theo ông họp lại hàng tuần thảo luận những ý tưởng ông đề xuất. Vào thời đó, không một ai nghĩ rằng những lý thuyết của Freud có ngày được cả thế giới biết đến.
Freud viết về tiến trình phát triển con người, về những tác phong bất bình thường, về những giấc mơ và một lý thuyết tâm vấn gọi là phân tâm học. Ông cũng viết về tôn giáo và gợi ý rằng tín nhân là những người bất ổn về phương diện tâm lý. Hơn bất cứ điều gì khác, có lẽ những lời phê phán này đã khiến cho nhiều mục sư cũng như tín hữu trong hội thánh hoài nghi tâm lý học và cả ngành tâm vấn.
Tuy nhiên đối lại thái độ trên, người ta có thể lập luận rằng sinh hoạt tâm vấn đã khởi sự có trước Freud nhiều thế kỷ. Ê-li-hu đã làm tâm vấn cho Gióp trong cơn đau buồn. Một thiên sứ đến tâm vấn cho Ê-li lúc nhà tiên tri thấy ngã lòng và cô đơn trong sa mạc. Đa-ni-ên làm tâm vấn nhưng vua Nê-bu-cát-nết-sa không nghe nên đã trở nên điên loạn. Đa-vít chơi thụ cầm để Sau-lơ đang rối loạn cả tâm lý lẫn tâm linh được khuây khỏa. Chúa Giê-xu được mệnh danh là “Đấng mưu luận lạ lùng” và trong cả Tân Ước chúng ta thấy không thiếu gì những trường hợp cơ đốc nhân giúp đỡ, khuyên dạy, chăm sóc lẫn nhau. Nếu tìm đọc biên niên sử hội thánh bạn cũng sẽ khám phá ra rằng việc quan tâm khuyên bảo, hướng dẫn, làm tâm vấn vẫn là đặc trưng của những người lãnh đạo trong hội thánh từ thời các sứ đồ cho đến ngày nay.
Có lẽ bạn còn nhớ câu chuyện Giê-trô đến thăm Môi-se khi dân Do Thái hạ trại ở chân núi Hô-rếp sau khi ra khỏi Ai-cập ký thuật trong sách Xuất Ai-cập chương 18. Nhạc gia của Môi-se là Giê-trô vô cùng hứng khởi khi nghe kể về những điều Đức Chúa Trời đã làm cho tuyển dân. Hai cha con cùng thờ phượng Đức Chúa Trời rồi có lẽ họ trò chuyện với nhau thật khuya hôm đó. Nhưng sáng hôm sau, Môi-se dậy sớm, theo lệ thường ngồi suốt ngày nghe và giải quyết những trường hợp tranh tụng trong dân, và dạy họ lề luật Chúa. Cả ngày chứng kiến cảnh đó Giê-trô quá bức xúc, ông bảo Môi-se, “Việc con làm không tiện vì quá nặng, con không thể gánh một mình nổi.” Rồi Giê-trô đưa ra một đề nghị rất cấp tiến. Ông bảo Môi-se chọn trong dân những người “tài năng,
kính sợ Đức Chúa Trời, chân thật, ghét sự tham lợi” và giao cho những người đó giải quyết các vụ tranh tụng trong dân, chỉ những trường hợp khó khăn mới chuyển lên cho Môi-se.
Môi-se nghe lời khuyên và làm theo lời ông gia đề nghị. Khi tín hữu chia xẻ trách nhiệm giúp những người có nhu cầu thì “mục sư Môi-se” mới không quá đa đoan nhọc mệt và đỡ phải đổ quá nhiều sức lực vào việc giải quyết nan đề. Có thể dạng thức tâm vấn ban sơ này phần lớn liên quan đến các vấn đề pháp lý, nhưng có lẽ những khó khăn cá nhân, tư riêng cũng từng được nêu ra. Trong bối cảnh của vùng đất sa mạc thời cổ đại, chúng ta đã thấy một vài đặc điểm của công tác tâm vấn cơ đốc hữu hiệu do những người kính sợ Chúa, chân thật, bén nhạy thực hiện, và họ cũng sẵn lòng chuyển tiếp những trường hợp khó khăn lên cho những cố vấn kinh nghiệm hơn.
Ý Nghĩa Công Tác Tâm Vấn Cơ Đốc
Công tác tâm vấn là thể hiện mối quan tâm thật sự giữa ít nhất hai người, trong đó nhà tâm vấn (counselor) tìm cách giúp người được tâm vấn (counselee) đối phó và tiên liệu những khó khăn trong cuộc sống. Trong công tác này nhà tâm vấn Cơ-đốc tìm cách áp dụng các nguyên tắc khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh để giải quyết nan đề. Công tác tâm vấn có thể có nhiều mục tiêu khác nhau mà chỉ có một số có thể áp dụng trong bất cứ tình huống tâm vấn nào. Tùy hoàn cảnh, người tâm vấn có thể tập chú vào việc giúp đối tượng
• thay đổi thái độ, hành động hay giá trị
• học những kỹ năng như cách kết thân, truyền đạt, học hành hay cách cầu nguyện.
• nhận định và diễn đạt cảm xúc như lo lắng, sợ hãi, cô đơn hay giận dữ.
• hiểu nguyên nhân nan đề của mình
• nhận trách nhiệm phải thay đổi tác phong và thái độ.
• ý thức tội lỗi, xưng ra và kinh nghiệm sự tha thứ của Đức Chúa Trời
• có những quyết định khôn ngoan
• chấp nhận sự giúp đỡ hay khích lệ của người khác, và đôi khi cũng có thể hỗ trợ người khác.
• nhận ra và có hành động đối phó với những nan đề có thể xuất hiện trong tương lai; và
• học cách tăng trưởng như một môn đồ của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Tính Cách Độc Đáo của Ngành Tâm Vấn Cơ Đốc
Trong vòng những năm gần đây tính chất quan trọng và hữu hiệu của tâm vấn ngày càng phổ biến trong các nước trên toàn thế giới. Đây cũng là một thực tại ở Việt nam cũng như trong các cộng động Việt nam ly hương.
Ỡ đây cũng như các nơi khác, Cơ-đốc nhân thường có những cơ hội rất đặc biệt giúp đỡ lẫn nhau. Tín hữu cũng như những người lãnh đạo trong các hội thánh thường quen biết khá rõ gia đình riêng và bối cảnh cộng đồng của người có nhu cầu tâm vấn. Không như những nhà tâm vấn chuyên nghiệp làm việc trong văn phòng cách biệt, các mục sư cũng như tín hữu làm tâm vấn được tự do đến nhà riêng thăm viếng và bất cứ ai có nhu cầu thì thông thường các bạn thân của người đó sẵn sàng đáp ứng nhanh chóng với các phương tiện thuộc linh sẵn có như đọc Kinh thánh, cầu nguyện. Là người quan tâm đến các vấn đề tâm linh, nhà tâm vấn cơ đốc có thể trở thành một nguồn trợ giúp đặc biệt cho những người quan tâm đến Đức Chúa Trời, đến các vấn đề giá trị, tội lỗi, sự tha thứ, tình trạng mắc tội, ý nghĩa đời sống và sự chết cùng những vấn nạn tôn giáo khác.
Tâm vấn Cơ đốc độc đáo ở ít nhất ba phương diện sau. Trước hết có một số điều cơ đốc nhân coi là đương nhiên về sự sống và vũ trụ. Thí dụ như chúng ta nhận rằng Đức Chúa Trời hiện hữu và Ngài giao tiếp với chúng ta; Ngài cũng là Đấng tạo dựng và bảo tồn vũ trụ bằng năng quyền của Ngài (Hy-bá 1: 1-3); Ngài tạo dựng con người và để chúng ta tự do ngay cả trong việc phạm tội cũng như trong kinh nghiệm nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời ( Giăng 1: 8-9); chúng ta cũng nhận rằng Chúa Cứu Thế đã chết vì tội chúng ta, đã phục sinh và hiện nay đang sống trên thiên đàng, làm trung bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người như chúng ta (Hy-bá 7: 24-25; I Ti-mô-thê 2: 4-6).
Vì những tín niệm đó, là Cơ đốc nhân có một quan điểm độc đáo về thế giới và những nan đề trên trần gian. Chúng ta không đồng ý với Erich Fromm, một nhà phân tâm học nổi tiếng, từng tuyên bố rằng loài người “cô đơn trong một vũ trụ hoàn toàn lãnh đạm với số phận con người.” Thay vào đó, chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời biết chúng ta, quan tâm săn sóc chúng ta, nghe lời cầu nguyện của chúng ta và giúp chúng ta đối phó với nan đề.
Điểm độc đáo thứ hai của tâm vấn Cơ-đốc liên quan đến mục tiêu. Trong lãnh vực tâm vấn, tín hữu cũng như người chưa tin có một số mục tiêu tương tự. Tất cả chúng ta đều muốn giúp người khác đối diện nan đề và giải quyết nan đề, sống thuận thảo với mọi người, học cách đối phó với các khủng hoảng, thay đổi những thái độ hay tác phong có hại, và tìm phương cách có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nhà tâm vấn Cơ-đốc cũng quan tâm đến việc giới thiệu sứ điệp tin lành và khích lệ người hỏi ký thác đời sống mình cho Chúa Cứu Thế Giê-xu, giúp họ ý thức và ăn năn tội để có thể kinh nghiệm ơn tha thứ của Đức Chúa Trời. Nhà tâm vấn khích lệ và giúp người được tâm vấn tăng trưởng trong đời sống tâm linh; khéo léo thách thức để họ dám thể hiện cuộc sống dựa trên căn bản Kinh Thánh thay vì theo tiêu chuẩn của xã hội đời thường. Nhà tâm vấn Cơ-đốc cũng phải là người có mục tiêu sống nêu gương làm môn đệ Chúa Cứu Thế Giê-xu (I Cô-rinh-tô 11: 1) và cũng như Ti-mô-thê, họ phải nêu gương trong lời nói, nết làm, trong tình yêu thương, trong đức tin và sự tinh sạch (I Ti-mô-thê 4: 12).
Thứ ba, nhà tâm vấn Cơ-đốc có những phương pháp làm việc đặc thù và trong chương ba, chúng ta sẽ bàn về một số kỹ thuật tâm vấn Cơ-đốc hữu hiệu. Chúng ta sẽ thấy các nhà tâm vấn Cơ-đốc lẫn không Cơ-đốc đều nhấn mạnh đến kỹ năng nghe, đặt câu hỏi, khích lệ hay đặt thẳng vấn đề và những phương pháp tâm vấn khác. Nhưng các nhà tâm vấn Cơ-đốc độc đáo hơn ở chỗ không dùng bất cứ phương pháp nào bị coi là vô luân hay có bất cứ khía cạnh nào không phù hợp với các tiêu chuẩn Kinh Thánh. Hơn nữa, không như các cố vấn thế tục, nhà tâm vấn Cơ-đốc dùng sự cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, việc tham gia các nhóm sinh hoạt trong hội thánh vàviệc thực hành những tập quán cơ đốc khác có thể đem khích lệ hữu ích cho người được tâm vấn (counselee).
Sứ đồ Phao-lô từng viết vắn tắt về mục tiêu đời sống ông, đó cũng là lý do ông chiến đấu và hoạt động và đây cũng là một chỉ dẫn hữu ích cho các nhà tâm vấn Cơ-đốc hôm nay:
“Ấy là Ngài mà chúng tôi rao giảng, lấy mọi sự khôn ngoan răn bảo mọi người, dạy dỗ mọi người, hầu cho bầy tỏ mọi người trở nên trọn vẹn trong Chúa Cứu Thế ra trước mặt Đức Chúa Trời. Ấy cũng nhờ đó mà chúng tôi làm việc, nhờ sức Ngài giúp đỡ mà chiến đấu, là sức hành động cách có quyền trong tôi” (Cô-lô-se 1: 28-29)
Giới Răn Trọng Yếu, Đại Mạng Lệnh và Tâm Vấn Cơ Đốc
Trong hơn ba năm giảng đạo, Chúa Giê-xu đã tóm lược giáo huấn của Ngài trong nhiều cơ hội khác nhau. Thí dụ như khi trả lời câu hỏi của một luật gia, Chúa Giê-xu nói đến hai “giới răn trọng yếu” là kim chỉ nam cho Cơ-đốc nhân suốt qua bao nhiêu thế kỷ, và ngay trước khi về trời, Chúa cũng đã ban hành “đại mạng lệnh.”
Hai giới răn trọng yếu được trích dẫn từ trong Cựu ước mà giới răn thứ nhất là: “hết lòng, hết linh hồn, hết trí, hết sức kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi” và giới răn thứ hai là “yêu người lân cận như mình.” Chúa cũng nói thêm, bảo rằng không có giới răn nào lớn hơn hai điều đó (Mác 12: 30, 31).
Đại mạng lịnh truyền bảo Cơ-đốc nhân đi đào tạo môn đệ khắp các nước, làm báp-tem cho họ nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh và dạy họ tuân giữ mọi điều Chúa Cứu Thế đã truyền dạy. Chúa Giê-xu bảo đảm với các môn đệ rằng Ngài có đủ mọi quyền lực và Ngài hứa ở cùng chúng ta luôn luôn, dù chúng ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt (Ma-thi-ơ 28: 18-20).
Có người bảo Chúa Giê-xu khởi đầu mục vụ bằng cách gọi Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng trở thành môn đệ, khi kết thúc, Ngài công bố đại mạng lệnh truyền bảo chúng ta đào tạo môn đệ, còn trong khoảng giữa, Chúa thể hiện giới răn trọng yếu bằng việc dạy con người phương cách trở thành môn đệ. Để thực hiện, Chúa đã tiếp cận con người bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều lúc Ngài dạy, có khi lắng nghe, giảng, biện giải, khích lệ, lên án, và bày tỏ cho mọi người thấy làm con cái Đức Chúa Trời là như thế nào. Ngài trò chuyện với người ở nhàriêng, trong đường phố, ở nơi thờ phượng, trong bữa ăn, trong đám tang, và lúc con người trên giường bệnh. Có lẽ không có hai người nào được Chúa tiếp cận cùng một cách. Chúa biết rõ những khác biệt của mọi người trong cá tính, nhu cầu, mức độ hiểu biết, và Ngài đối đãi với mỗi người theo cách riêng.
Khi con người có nhu cầu tâm vấn, họ thường không quan tâm đến những việc thuộc linh hay nghe giảng luận. Giống như những người đến với Chúa Giê-xu, họ có nhu cầu khẩn thiết cần được đáp ứng hay nan đề cần giải quyết. Thông thường, họ cần được đối đãi nhân từ, cần được khích lệ, hướng dẫn hay chữa lành. Trách nhiệm nhà tâm vấn là gặp gỡ đối tượng đúng vào lúc họ có nhu cầu.
Tuy nhiên chúng ta không bao giờ nên quên rằng giới răn trọng yếu và đại mạng lệnh vẫn áp dụng cho tín hữu ngày nay. Chúa vẫn truyền bảo chúng ta yêu kính Ngài, yêu mến và đối xử với người lân cận như với chính mình, phải làm môn đệ Chúa Cứu Thế Giê-xu cũng như đào tạo tha nhân thành môn đệ Chúa bằng lời chứng và lời dạy. Chúng ta không thể bỏ qua những giáo huấn này trong khi thực hành tâm vấn. Giới răn trọng yếu và đại mạng lệnh là lệnh lên đường cho tất cả những ai theo chân Chúa Cứu Thế.
Đã xét những điều trên, chúng ta thấy cũng cần nghĩ đến công việc của các y sĩ Cơ-đốc. Như mọi người khác, những người trong ngành y cũng có bổn phận tuân thủ giới răn trọng yếu và thực hành đại mạng lệnh; tuy nhiên trong phòng cấp cứu, không bác sĩ nào mở Kinh thánh ra giảng, nhưng khởi đầu xem xét những chỗ đau đớn của bệnh nhân. Bác sĩ sẽ thể hiện tình yêu của Chúa Cứu Thế bằng cách bày tỏ lòng quan tâm và tận tình làm mọi điều cần thiết để giảm bớt đau đớn cho bệnh nhân và giúp sớm bình phục. Làm như vậy không có nghĩa là bác sĩ tránh né nói đến các vấn đề tâm linh nhưng chỉ có nghĩa là việc chữa bệnh được nhấn mạnh. Y sĩ là Cơ-đốc nhân biết rằng làm giảm bớt đau đớn là việc làm tôn vinh Chúa Cứu Thế và đó thường là một bước tiến quan trọng cho việc chứng đạo (Châm Ngôn 14: 31; Ma-thi-ơ 10: 42)
Giống như nhiều bác sĩ, một số cố vấn tâm lý hoàn toàn bỏ qua vấn đề tâm linh, không đề cập gì đến Chúa Cứu Thế trong suốt thời gian hướng dẫn và đây là một bất công nghiêm trọng đối với người được tâm vấn. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nói thêm rằng ngay cả khi vấn đề tâm linh được nhắc đến thì cũng quá bất ngờ, ngắn ngủi và vội vàng. Người tư vấn cần bén nhạy với sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh, tin rằng Ngài sẽ cho chúng ta biết thời điểm và cách thức bàn đến vấn đề tâm linh. Những người cần tâm vấn rất phức tạp, có nhiều nhu cầu về thể xác, tâm lý và tâm linh vì thế chúng ta không nên chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh mà bỏ qua lãnh vực tâm lý và thể xác, hoặc chỉ chú trọng đến tâm lý hay y khoa, coi như vấn đề tâm linh không liên quan hoặc không quan trọng. Giới răn trọng yếu và đại mạng lệnh dạy chúng ta phải tập chú vào toàn thể con người với mọi loại nhu cầu.
Ngành Tâm Lý Thế Tục Và Tâm Vấn Cơ Đốc
Có một số bằng chứng cho thấy chúng ta đang sống trong một cuộc bùng nổ trên toàn thế giới về ngành tâm lý. Sách báo, học trình đại học, những công trình nghiên cứu, các khoá hội thảo, các bài tường trình trên các báo hay tạp chí – tất cả cho thấy tâm lý học hiện đang trở thành một hiện tượng toàn cầu. Tâm lý học là nền tảng của ngành tâm vấn nhưng cũng là một sức mạnh rất có ảnh hưởng đến các phương pháp dạy trẻ, củng cố gia đình, thương nghiệp, kiến trúc, văn chương, hoạch định đô thị, kinh tế và ngay cả nông nghiệp, chính trị và bang giao quốc tế.
Cơ-đốc nhân phản ứng với hiện tượng này như thế nào? Chúng hoàn toàn chấp nhận và không phê phán các giáo huấn của ngành tâm lý? Chúng ta phản ứng chống lại ngành tâm lý hiện đại như thế hệ cha ông chúng ta chống lại ảnh hưởng của Freud? Hay chúng ta cố gắng tiếp thu từ các kết luận của ngành tâm lý rồi tìm cách áp dụng một số các kết luận đó trong công việc hội thánh?
Rõ ràng là chúng ta không thể bưng tai nhắm mắt đối với ngành tâm lý và coi như không có. Đức Chúa Trời vô cùng khôn sáng đã cho phép các nhà tâm lý khám phá ra nhiều dữ kiện hữu ích về cách thức con người hành động, suy nghĩ và giải quyết các nan đề. Tất nhiên, những kiến thức này còn rất thô sơ và còn nhiều sai lầm nhưng ngay cả những người phê phán ngành tâm lý, cố ý bỏ qua ảnh hưởng của nó cũng vẫn thường dùng những từ liệu tâm lý trong khi truyền đạt và dùng các phương pháp tâm lý trong công tác tâm vấn. Vì vậy, thay vì loại trừ ngành tâm lý, chúng ta nên học hỏi và chấp nhận những gì đã được minh chứng là có hiệu quả, phù hợp với các lời dạy của Kinh thánh và bỏ qua phần còn lại.
Trong những thập niên qua kể từ thời của Freud, người ta đã đưa ra nhiều thuyết tâm lý về tâm vấn. Tóm lược tất cả những lý thuyết đó không phải là việc dễ dàng, tuy nhiên, chúng ta có thể chia ra làm ba nhóm.
Nhóm thứ nhất là những phương pháp tâm vấn chỉ đạo. Đối với phương pháp này, nhà tâm vấn (counselor) được coi là một chuyên gia phân tích nan đề, quyết định giải pháp, rồi truyền đạt những giải pháp này cho người được/cần tâm vấn (counselee). Người này đến xin lời khuyên và được chỉ bảo phải làm những gì để vấn đề sáng sủa hơn. Phương pháp này đặt nặng trách nhiệm trên nhà tư vấn và thường rất khó có thể thực sự biết làm thế nào để giúp người khác.
Tương phản với phương pháp trên là phương pháp tâm vấn cho phép. Phương pháp này giả định rằng người được tâm vấn có thể tự giải quyết nan đề nếu họ được tự do và cơ hội suy nghĩ, tìm hiểu cặn kẽ vấn đề. Vì vậy, nhà tâm vấn không làm công việc chẩn đoán, đề nghị giải pháp hay phương thức trị liệu mà thay vào đó nhà tâm vấn cẩn thận lắng nghe, thỉnh thoảng tóm lược lại những gì mới nghe, tạo một mối quan tâm thực sự qua đó giúp người được tâm vấn diễn đạt được xúc cảm của mình và lần hồi có thể tự tìm ra giải pháp cho nan đề của mình.
Thứ ba là phương pháp tương tác hay trao đổi (interactional approaches) qua đó nhà tâm vấn và người được tâm vấn đứng ở vị trí tương đối bình đẳng, cùng thảo luận giải pháp cho nan đề cần giải quyết.
Ba phương thức trên phản ánh rõ ràng những khác biệt văn hoá. Trong những xã hội tôn trọng thẩm quyền và kính trọng thành phần trưởng thượng, phương thức chỉ thị có chiều hướng phổ thông nhất, còn trong những xã hội phóng khoáng hơn, người ta thường thấy phương thức thứ hai và thứ ba được áp dụng.
Như vậy phương pháp nào đúng? Có thể là cả ba đều đúng tùy theo nan đề, tùy mong đợi của người cần tâm vấn và tùy thuộc cá tính của nhà tâm vấn. Đôi khi Chúa Giê-xu rất thẳng tay và cứng rắn với đám lãnh đạo giáo quyền địa phương, nhưng Ngài lại dễ dãi hơn với hai môn đồ trên đường Em-ma-út, để họ tự do thổ lộ tâm trạng rồi Ngài khuyên dạy họ. Chúa Giê-xu đàm luận những vấn đề cao siêu với luật sư Ni-cơ-đem, ôn tồn nói với người phụ nữ rờ gấu áo Chúa để mong được lành bịnh. Có lẽ Ngài cũng ẵm bồng con trẻ đem đến cho Ngài và tất nhiên, Ngài cũng đã dành riêng nhiều buổi ân cần khuyên dạy các môn đệ.
Trong những năm gần đây một số cơ đốc nhân chân thành đề xuất những lý thuyết riêng của họ về tâm vấn Cơ-đốc. Nhiều phương pháp rất hữu dụng nhưng có một số cứng ngắc vàtrình bày chủ quan coi là đúng và có thẩm quyền y như Kinh Thánh.
Là Cơ-đốc nhân, chúng ta cần nhớ rằng Đức Chúa Trời tạo dựng mỗi người khác nhau. Ngài cho chúng ta sử dụng những phương thức khác nhau để giúp đỡ lẫn nhau. Tất nhiên chúng ta cần luôn luôn nỗ lực cố vấn bằng những phương cách tôn cao Chúa Cứu Thế và phù hợp với các giáo huấn trong Kinh Thánh. Chúng ta cũng cần tránh chỉ trích phương pháp của người khác vàcũng nên tránh tuyên bố (như một vài người) rằng “chỉ có phương pháp của tôi mới đúng Kinh Thánh.” Lối suy nghĩ kiêu hãnh và thiếu tế nhị đó thường cản trở cho chức vụ tâm vấn Cơ-đốc, làm tổn hại người được tâm vấn và không tôn cao Chúa Cứu Thế.
Hội Thánh và Tâm Vấn Cơ Đốc
Trong Tân Ước, hội thánh được được mô tả là một cộng đồng tín hữu cam kết theo Chúa Cứu Thế Giê-xu. Tín hữu là những người thành tâm thờ phượng, cầu nguyện, làm chứng tá, dạy đạo và khích lệ lẫn nhau. Chúa Giê-xu bảo rằng sống yêu thương là đặc điểm nổi bật nhất của họ (Giăng 13: 35)
Một trong những công tác chính của hội thánh là giúp người, “Đức Chúa Trời đã sắp đặt thân người để chi thể nào thiếu thốn thì được quí trọng hơn, hầu cho trong thân không có sự phân rẽ, mà các chi thể phải đồng lo tưởng đến nhau. Lại trong các chi thể khi có một cái nào chịu đau đớn, thì các cái khác đều cùng chịu, và khi một cái nào được tôn trọng, thì các cái khác đều cùng vui mừng. Anh em là thân của Chúa Cứu Thế và mỗi người là một phần của thân thể ấy” (I Cô-rinh-tô 12: 24-27). Theo chương trình của Đức Chúa Trời, hội thánh phải là một thân thể hiệp nhất bao gồm các tín hữu là những người đươc ban quyền năng Thánh Linh và cam kết giúp đỡ những người khác cả trong lẫn ngoài hội thánh.
Các cơ đốc nhân thờ phượng Chúa trong hội thánh không nhất thiết giống nhau. Một số các phân đoạn trong Tân Ươc như Rô-ma 12, I Cô-rinh-tô 12, Ê-phê-sô 4 cho biết tín hữu được phú ban những ân tứ đặc biệt. Thí dụ như có người được ban khả năng giảng hay dạy, người khác có ơn giúp đỡ hay quản trị, điều hành. Có những ân tứ trội hơn những ân tứ khác, nhưng tất cả đều quan trọng và cần thiết.
Theo Ê-phê-sô 4: 12-16, các ân tứ do Đức Thánh Linh ban có hai mục đích. Trước hết, đó là những trang bị cần thiết cho cá nhân tín hữu để phục vụ Chúa. Thứ hai, các ân tứ được dùng xây dựng và củng cố toàn hội thánh để các thuộc viên hiệp một, trưởng thành, chống lại những trào lưu chóng tàn hay các loại triết lý sống.
Một số học giả Kinh thánh coi tâm vấn là một trong những ân tứ thuộc linh – nghĩa là khả năng đặc biệt Đức Chúa Trời ban cho tín hữu với mục đích xây dựng hội thánh và gia tăng sức mạnh cá nhân. Rô-ma 12: 8 nói đến ân tứ khuyên bảo. Từ Hi-lạp paraklesis có nghĩa là “đến bên cạnh để giúp đỡ.” Từ liệu này hàm ý chỉ những hành động như an ủi, hỗ trợ , khích lệ, và khuyên bảo. Tất cả những điều này nghe ra giống như công tác tâm vấn.
Tuy nhiên, dù chỉ một số người đặc biệt có ơn tứ trong lãnh vực này nhưng tất cả các tín hữu đều có trách nhiệm giúp người khác. Trong thư Gia-cơ, chúng ta được nhắc nhở nhiều lần rằng đức tin của chúng ta là đức tin chết nếu nó không tự thể hiện trong mối quan tâm thực tế đối với nhu cầu người khác. Đây là khái niệm được nhấn mạnh suốt cả Tân ước. Tất cả chúng ta được truyền dạy phải gây dựng người khác, khuyên bảo lẫn nhau, giúp đỡ người yếu đuối, và nhẫn nhịn với mọi người xung quanh (Tê-sa-lô-ni-ca 5: 11,14). Tất cả những người có sự sống thiêng liêng đều có trách nhiệm phục hồi những người sẩy chân ngã vào tội lỗi, trách nhiệm mang gánh nặng cho nhau và làm lành cho cho mọi người, cả trong lẫn ngoài hội thánh (Ga-la-ti 6; 1-2, 10). Dân Chúa phải có lòng thương cảm, hiền lành, khiêm nhường, dịu dàng, kiên nhẫn, yêu thương và luôn luôn sẵn sàng tha thứ (Cô-lô-se 3: 12-14). Hiển nhiên, cơ đốc nhân có trách nhiệm đến với người khác, yêu thương lẫn nhau và tư vấn cơ đốc là một trong những phương cách thể hiện trách nhiệm đó.
Chúng ta đến với người khác bằng cách nào? Làm sao để trở thành người tâm vấn? Tâm vấn Cơ-đốc là làm những gì? Làm thế nào chúng ta có thể thực sự giúp người khác? Đây là những câu hỏi quan trọng, là căn bản trong các học trình tâm vấn tại đại học. Một số người trong đó có cả Cơ-đốc nhân đã theo học những chương trình này, được huấn luyện chu đáo và trở thành những cố vấn chuyên nghiệp, các nhà tâm lý hay phân tâm học. Đây là những nhà chuyên môn có thể giúp được những người có nan đề đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên, để có thể giúp người khác, bạn không nhất thiết phải trở thành nhà tâm vấn chuyên nghiệp. Số người chuyên môn không nhiều và cũng không có bằng chứng khoa học nào xác định rằng họ hữu hiệu hơn những người không chuyên. Nhiều mục sư cũng như tín hữu là những người biết Chúa rõ, mong muốn được Chúa dùng để giúp người khác có thể làm công tác tâm vấn rất hữu hiệu. Làm thế nào trở thành người cố vấn có hiệu năng là chủ đề chính của những chương kế tiếp.
Disclaimer: This site does not endorse and is not affiliated with any of material listed in this site. The author and the author’s firm expressly disclaim all liability in respect of any actions taken or not taken based on any contents of this post.