TÌNH YÊU THƯƠNG CỦA THƯỢNG ĐẾ TRONG CÔNG TÁC TƯ VẤN
Trong chương trước, chúng ta đã thấy yếu tính của tình yêu thương là cho và nhận - hay phải chăng đó là con đường ngược hẳn lại? Giờ đây, chúng ta phải cùng nhau thử rút ra vài cái nhìn xuyên suốt liên hệ đến tình yêu thương và việc tiếp nhận bằng cách nhìn vào những gì Chúa Giê-xu đã truyền dạy về chủ đề ấy, và xét xem Ngài đã sống theo đó như thế nào. Việc làm này sẽ soi sáng cho tiến trình tư vấn.
Có lẽ điều hiển nhiên nhất vẫn được nhắc đi nhắc lại mãi, ấy là mọi người đều cần được thương yêu mà tiếp nhận. Tất cả các sách viết về công tác tư vấn, dù là theo khuynh hướng Cơ-đốc giáo hay không, đều đặt mục tiêu là giúp một người đạt đến cấp bậc tự chấp nhận. Điều này sẽ gồm luôn việc chấp nhận tha nhân nữa, tức là cái khả năng để họ cùng sống với nhau, cái khả năng để sống với các vấn đề. Hầu như mọi vấn đề tựu trung, đều do thiếu tình yêu thương ở một mức độ nào đó. Cho dù nó có được mô tả như thế nào, được từng trải như thế nào, không có tình thương vẫn gây thương tổn, vì nó chính là phần cốt lõi của tội lỗi. Tội lỗi tiêu diệt tình thương rồi thay vaò đó bằng một ảo tưởng về quyền lực, một ảo tưởng tệ hại là chỉ có một mình ta mới có thể quyết định điều gì là đúng, là phải cho mình. Đó là không có tình thương - và tấn thảm kịch ấy là phần đông người ta đều không ý thức được tình trạng này.
Ngày nọ, gia đình chúng tôi thảo luận về vấn đề của cải. Tôi nghe rằng có một người hành nghề trong vùng kiếm được đến 100.000 bảng Anh mỗi năm. Cả sau khi nộp thuế và trừ mọi chi phí, đó vẫn còn là một số tiền khổng lồ; hơn nữa, sự việc ấy lại xảy ra trong một xứ mà đa số dân chúng chỉ kiếm được chưa tới một phần trăm số tiền như thế, thì một người có thể làm gì? Phải chúng ta có thể sống trong một ngôi nhà sang trọng - có thể là quá lớn so với nhu cầu của mình; chúng ta có thể mua một chiếc ô tô to hơn và tốt hơn; giáo dục con cái chúng ta đắt tiền hơn; mua một chiếc du thuyền, trang phục, các vật dụng trong thiết bị trong nhà và bất cứ thứ gì khác tuỳ thích. Có thể quả là đúng như thế; chúng ta còn có thể xuất ngoại mỗi ngăm hoặc đại khái như thế; nhưng cuối cùng thì chúng ta có được khá hơn chút nào không? Chúng ta có thể ăn ngon, có cả một đạo quân tôi tớ, nhưng chúng ta có quan tâm đến người khác, có yêu thương họ, có bất vị kỷ hơn không? Các mối liên hệ của chúng ta có khá hơn không? Nhiều khi tôi nghĩ rằng những cuộc hôn nhân của những người có quá nhiều của cải có thể dễ dàng kết thúc như những chiếc vỏ sò rỗng ruột - chủ được bao bọc chung quanh bằng các tài vật mà không có nền móng là tình yêu bất vị kỷ.
Mới đây, tôi có hỏi một đôi vợ chồng trẻ, chẳng hay có nhậ thấy rằng ngủ với nhau là thật sự bộc lộ tình yêu của họ ngoài sự ràng buộc của hôn nhân hay không. Tình dục không thể thay thế cho tình yêu, và nếu họ thành thật tin rằng việc ấy đã đưa họ đến gần nhau hơn, thì tôi dám chắc rằng nẻo đường ấy đang đầy dẫy khó khăn. Tình dục không phải là tình yêu. Tình dục phải là cách bộc lộ bằng thân xác một mối liên hệ cách bộc lộ bằng thân xác một mối liên hệ yêu thương có cơ sở là hững yếu tố vữngchắc của tình bạn và sự kết bạn đơn giản. Có như thế thì phương tiện truyền giống ấy mới trở thành một hành động quang vinh của việc tự hiến dâng thuần tuý. Lợi dụng tình dục như một lối đi tắt trong một mối liên hệ thì không phải là yêu thương; nó là vị kỷ và dẫn tới sự vị kỷ.
Trung điểm của Cơ-đốc giáo là thập tự giá. Nó biểu tượng cho tình yêu thương của một Thượng Đế thà chết còn hơn là cưỡng bách người ta theo mình. Thế nhưng đó không phải là một điều gián tiếp; nó chỉ vào cách sống của Ngài. Nó hướng dẫn bằng lời hứa ban cho sự sống mới nếu chúng ta sẵn sàng vứt bỏ nếp sống cũ; nó tấn công tội lỗi và chết vì tội nhân; nó chiến thắng tánh vị kỷ của loài người bằng tánh bất vị kỷ của Đấng đã tự phó mạng sống mình vì chúng ta. Chẳng hề có những lối đi tắt, cũng không bao giờ có những câu trả lời dễ dàng. Tình yêu thương của Thượng Đế vốn hết sức đơn sơ, đến nỗi người ta hoặc nhìn nó rồi bỏ qua, hoặc phân vân vì nó; chính tính cách đơn giản ấy đòi hỏi một câu trả lời bất vị kỷ, chẳng được phần thưởng gì khác hơn là chính Đấng yêu thương mình. Tình yêu của Thượng Đế là tình yêu tự hi sinh để thu hút tội lỗi mà không chịu thoả hiệp với nó. Tình yêu của Thượng Đế là một thực tại trong lịch sử, đã tạo ra Hội thánh, là cộng đồng hiện hữu để thể hiện tình yêu của Thượng Đế và nhờ đó mà sống. Lẽ dĩ nhiên là có một khoảng cách rộng lớn giữa các lý tưởng tuyệt đối mà Hội thánh lưu tồn với các hành động trong thực tế của nó. Chẳng hề có ai đã biết chút gì về sử ký của Hội thánh, mà còn muốn tìm cách bảo vệ cho quan điểm gợi ý rằng Hội thánh vẫn trước sau như một và toàn tâm toàn ý sống bằng tình yêu của Thượng Đế. Nhưng lạ lùng thay, Hội thánh với tất cả lỗi lầm và bất toàn của mình, những chia rẽ và thói tự phụ tự mãn của mình vẫn cứ truyền bá và tồn tại bằng cách nhờ thực tại của tình yêu của Thượng Đế mà sống giữa mọi người và mọi dân tộc. Hội thánh như một thân thể èo uột, dị dạng, vẫn còn rao giảng ai nấy đều được biết điều mà không ai nghĩ là có thể có được: đó là tình yêu của Thượng Đế là một thực tại mà người ta có thể nhờ đó để sống, cũng có thể vì đó mà chết. Trong tiến trình đó, Thượng Đế đã được truyền giảng, vinh quang của Ngài vẫn chói rạng và nhiều người đã được cứu.
Tình yêu của Thượng Đế không phải là một cái gì có tính cách tình cảm, không định hình. Nó tập trung nơi Chúa Giê-xu, một con người có một lịch sử và một khải tượng về Thượng Đế. Nhữnglời Ngài tự ưng là Đấng Mê-si-a rất quan trọng, nhưng chính việc Ngài kêu gọi mọi người hãy tin cậy Ngài mới đem đến cho Ngài một phổ quát tính và một sự rõ ràng mà chúng ta thường không nhìn thấy được vì chỉ biết nhìn bằng những đôi mắt đã bị tội lỗi khiến thành bệnh hoạn của mình. Ngài đến để phán xét, không phải bằng cách nguyền rủa , nhưng bằng cách chỉ rõ cho chúng ta tự thấy mình là ai khi chúng ta muốn mình trở thành người như thế nào. Ngài bày tỏ cho mọi người thấy tình yêu thương của Thượng Đế mà loài người chối bỏ. Với những ai tin nhận Ngài, thì “được quyền làm con cái Thượng Đế”. Loài người muốn được quyền thế, nhưng lại đi dông đi dài để tìm nó theo ý riêng của họ. Đó không phải là đường lối của Thượng Đế. Ngài chỉ cho chúng ta một nếp sống khác: “Thượng Đế yêu thương nhân loại đến nỗi hy sinh Con Một của Ngài”. Tình yêu của con người lại khác hẳn. Nếu con người yêu một điều gì đó, thì nó “giật lấy” điều ấy. “Anh yêu em - anh muốn có em”. “Tôi thích vật đó, tôi muốn có nó”. Tình yêu của Thượng Đế trái hẳn với loại tình yêu muốn” “cướp quyền” mà chúng ta thường có.
Lời truyền dạy của Chúa Giê-xu về tình yêu thương.
Điểm rõ ràng nhất để bắt đầu là Bài Giảng Trên Núi. Ở đây, khi đối diện với Chúa Giê-xu, chúng ta thấy một tập hợp các giá trị khiến chúng ta phải kinh ngạc nhưng cũng khiến chúng ta hi vọng. Lời truyền dạy của Bài Giảng trên Núi đã được C.J.Langenhoven một người Nam Phi viết văn Afrikaans, mô tả là một loạt những “nghịch lý gây chấn động”. Dù có gây chấn động hay không, chúng cũng trực diện với chúng ta với những cái nhìn xuyên suốt đến tận căn cội của các mối liên hệ giữa loài người vốn là kết quả của việc Thượng Đế dấn thân tự ràng buộc với họ và xuyên suốt bản tính của tình yêu thương của chính Thượng Đế.
Chúa Giê-xu đã làm đảo lộn các giá trị của thế gian và đưa ra một chiều kích mới cho đời sống và cách sống. Câu hỏi là tại sao? Lời đáp thì nằm ngay trong bản tính của Thượng Đế. Điều không thể tránh né vào đâu được, ấy là Chúa Giê-xu vốn là một người Do-thái, cho nên Ngài phải xem những cái nhìn thông tuệ của Cựu ước vào Thượng Đế như là hẳn nhiên rồi. Ngài đã biết rõ hành động vĩ đại tại Núi Si-na-i, nơi dân Y-sơ-ra-ên đã được biệt riêng ra để khiến cho các dân các nước biết rằng Thượng Đế đang hiện diện. Ngài biết rõ sự thánh khiết, cũng như đức công bằng và công chính của Thượng Đế. Nhưng Ngài cũng biết rẳng tất cả những gì mà dân Y-sơ-ra-ên cho người ta thấy đó cũng chỉ là một phản ảnh mờ nhạt của vẻ uy nghiêm đáng sợ của Thượng Đế là Đấng Tạo Hoá và là Nhà Vua đòi hỏi mọi người phải vâng lời và tận trung với mình, thế hưng đồng thời cũng phải mở lòng ra để thiết lập một mối liên hệ với chính Ngài và tha nhân, là điều đã khiến cho họ được biệt ra để mọi người đều có thể nhận thấy họ là dân thánh và được chọn của Ngài. Lẽ dĩ nhiên mọi điều đó có nghĩa là một nếp sống khác hẳn, và đối với những người sống trong thời Cựu ước, điều đó đã được tóm tắt trong Bài Kinh Nhật Tụng (Shema): “Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe! Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai. Ngươi phải hết lòng hết ý, hết sức kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi”.
Lệnh truyền trong Lê-vi-ký mà các thầy dạy luật đã trích dẫn cho Chúa Giê-xu chỉ là một phần nhỏ của cả một chương sách vạch rõ cho dân Y-sơ-ra-ên biết được biệt riêng ra thánh có nghĩa là gì. Động cơ thúc đẩy thhì hết sức đơn giản - “Vì ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, là thánh”. Thí dụ hư “hiếu kính” cha mẹ là một phương diện - lòng yêu kính ấy vốn nảy sinh từ việc các ngươi thừa nhận rằng mình vốn lệ thuộc vào họ. Giữ ngày Sa-bát, thành thật, cách các ngươi làm ruộng và kinh doanh, tất cả mọi điều đó đều họp thành một nếp sống khác hẳn. Áp bức, bất công, thiên vị khi thi hành pháp luật, phỉ báng, căm thù, là tất cả những gì cần phải nhổ cho tận gốc; trong dân thánh của Thượng Đế không có chỗ cho mọi điều đó. Và cuối cùng, tương phản với các giá trị tiêu cực đã được trình bày khá chi tiết, chúng ta đọc thấy: “Chớ toan báo thù, chớ giữ sự báo thù cùng con cháu dân sự mình; nhưng hạy yêu thương kẻ lân cận ngươi như mình: Ta là Đức Giê-hô-va”. Cho nên khi Chúa Giê-xu ban cho chúng ta một nền đạo đức học vượt xa những gì mà Do-thái giáo đòi hỏi về đủ mọi phương diện, thì Ngài sở dĩ làm như thế vì đã ý thức được tính cách mật thiết của bản tính của A-ba - là chính Thượng Đế. Von rad gợi ý rằng ở đây “điểm nhấn mạnh đã được đặt trên tình yêu thương đối với Thượng Đế như là cảm thức duy nhất xứng đáng với Ngài”, cho nên đó cũng là cách đáp lại với người lân cận thân thương của ta.
Chúa Giê-xu không thường trực tiếp truyền dạy về bản tính của Thượng Đế, nhưng phần lớn những lời phán dạy của Ngài đều hà ý dạy về vấn đề đó. Nằm ngay trong “trái tim” của Thượng Đế là một tình yêu thương tự hi sinh, muốn rằng toàn cõi thọ tạo phải sống bằng cùng một tình thương yêu đó. Đó chính là điều tạo ra hoà bình, tạo ra ý muốn điều tốt nhất cho nhau. Tình yêu của Thượng Đế vốn vô giới hạn, đến nỗi những thành tố nhỏ nhặt nhất của sự sống, một sợi tóc, một con chim sẻ, một con người hèn hạ nhất vì lạc xa Thượng Đế mà phải bị hư vong, tất cả đều vô cùng quan trọng. Cũng thế với những phần tử bị xem là cặn bã của nhân loại mà Ngài van vui vẻ giao du và cùng ăn với họ. Trong trái tim của Thượng Đế là lòng thương xót áp đảo tất cả, và điều đó đã được phản ảnh nhiều lần trong lời truyền dạy của Chúa Giê-xu. Tha thứ, nhân từ, vui mừng, tất cả đều là những biểu hiện của tình yêu thương của Ngài. Nhu cầu của người khác là một cơ hội không được lặp lại. Yêu thương không chị đơn giản là tán thưởng người khác, hay tỏ ra tử tế với người mình thích, mà nó còn bao gồm việc phải tử tế yêu thương chính người đang cố tìm cách giết bạn nữa. Loại thái độ này làm thay đổi đời sống người ta; nó nhân hoá con người ta để bò qua không nhìn thấy “kẻ cựu thù”, mà chỉ nhìn thấy người được Thượng Đế thương yêu quý mến. Quyển Phép lạ trên sông Kwai (Miracle on the river Kwai) của Ernest Gordon là một lời chứng hùng hồn cho loại đời sống này - nếu ta cần có một lời chứng. Có một sự kiện hiển nhiên, ấy là tình yêu thương của Thượng Đế là lực lượng cách mạnh duy nhất có thật trong lịch sử, và là điều khó tiếp nhận nhất. Lê-vi-ký vạch rõ rằng mọi góc cạnh của đời sống đều ở dưới quyền giải phóng của vị Chúa tể của công trình sáng tạo. Chỉ một mình uy quyền ấy mới nhân hoá được con người và đem đến cho đời sống một ý nghĩa.
Tình yêu thương của Thượng Đế cũng gồm cả sự phán xét là điều không thể tránh được. Có nhiều người muốn tiếp nhận tình yêu thương của Thượng Đế, nhưng lại không thích nhìn vào yếu tố phán xét, vốn nằm ngay trong tình yêu thương. Vấn đề thật đơn giản và cần thiết. Phán xét là phương diện mà Thượng Đế quan hệ với con người để phơi bày ra tính cách đầy tội lỗi của con người. Tình yêu tuyệt đối bằng chính hành động yêu thương của nó, phơi bày tội lỗi của chúng ta ra, cho nên A-đam và Ê-va cũng như chúng ta, đều chạy lui để trốn vào trong tình trạng còm cõi không tăng trưởng của mình, với hi vọng là tình yêu thương thì vẫn còn đó nhưng sự phán xét sẽ không xảy ra. Việc chúng ta làm còn hơn là chạy trốn nữa. Trong bài thơ tươi sáng nhưng đầy ray rứt của mình, Francis Thompson mô tả nó vượt hẳn một cuộc chạy tiếp và khổ thơ đầu tóm tắt nỗi sợ tuyệt vọng của con người đối với tình yêu thương áp đảo của Thượng Đế tất cả.
Tôi đã chạy trốn Ngài thâu đêm suốt ngày
Tôi đã chạy trốn Ngài qua các vòm cửa của các năm;
Tôi đã chạy trốn Ngài qua những nẻo đường của cái mê cung
Của tâm trí tôi; và giữa những giòng lệ
Tôi tự giấu mình khỏi Ngài.
Không, đó không phải là một cuộc chạy trốn. Đó là một cuộc trốn chạy do cơn điên loạn khiến giải ta kinh hoàng. Vị thần toàn thiện toàn hảo thật đáng sợ đối với những ai cố ý muốn phản loạn chống lại Ngài.
Do đó, sự phán xét của Thượng Đế bao gồm cả lòng tin cậy của con người, lẫn sự đòi hỏi phải vâng lời của Ngài. Các ẩn dụ đã tóm tắt rất hay cả hai yếu tố đó. Nhân vật Thượng Đế của người cha trong ẩn dụ Đứa Con Phóng Đãng là nhân vật mà tình yêu thương đã tràn ngập thái độ cố ý của đứa con bị lạc đàng. Ông chỉ giao tài sản mình cho những người khác khi phải đi xa một thời gian dài đang thực thi một yếu tố khác nữa của tình yêu thương - lòng tin cậy, phó thác. Sự kiện những người ta điều tỏ ra không đáng tin cậy có nghĩa là họ phải nhận lấy sự phán xét không tránh né vào đâu được mà ngụ ý đã nằm ngay trong việc họ sẵn sàng nhận lấy điều vốn không phải là của họ. Với vị hoàng thân giao tiền cho các nhân viên phụ ta cũng thế. Trong mỗi trường hợp, các vật được ông chủ phó thác - và bọnt huộc hạ đều không đáng tin cậy. Cho nên dù muốn dù không, cũng phải có sự phán xét, vì Thượng Đế không phải là Đấng bỏ qua điều ác hay sự không thành thật. Điều đó trái với bản tính của Ngài. Vấn đề là trong mỗi một ẩn dụ đó, nhân vật chính - vị hoàng thân hay ông chủ - đều tiêu biểu theo một phương diện nào đó cho một Thượng Đế đầy lòng yêu thương, tin cậy và thương xót. Chính sự kiện Thượng Đế vốn giàu lòng yêu thương tin cậy như thế đã khiến loài người trở thành thiếu thành thật, bất trung bất nghĩa, làm theo ý riêng. Chẳng còn có lối thoát nào khác; khi đã không có sự đáp ứng thích đáng, thì vừa phải có sự trừng phạt vừa phải có việc sửa chữa trước khi mối liên hệ có thể được tái lập. Mã-thi mô tả sự việc có phần nào nhiều kịch tính hơn Lưu-ca. Lưu-ca giữ các ẩn dụ trên bình diện của đời này; Mã-thi còn có một yếu tố của thiên đàng đúng với nhóm các ẩn dụ nhằm mục đích riêng là đề cập sự phán xét. Tuy nhiên trong mỗi trường hợp, điểm đầu tiên trong ẩn dụ đều là ý định đầy tình thương yêu của nhà vua, chàng rể, ông chủ sắp đi xa, hoặc Nhà Vua phán xét các dân các nước.
Trong sách Phúc âm Giăng, các yếu tố của tình yêu thương và sự phán xét cònđược kéo lại gần nhau hơn. Việc dọn sạch Đền thờ sở dĩ được đặt ngay vào khi sách phúc âm ấy được bắt đầu chính vì nó muốn cho mọi người biết rằng khi cái mới được đưa vào, thì cái cũ không những chỉ bị sửa đổi, mà thiết yếu còn bị phê phán và nhận thấy là khiếm khuyết nữa. Mấy lời Chúa Giê-xu phán với Ni-cô-đem đạt đến tuyệt đỉnh tại điểm cần phải biết rõ nhất trong tất cả các văn bản Thánh Kinh: “Vì Thượng Đế yêu thương nhân loại đến nỗi hy sinh Con Một của Ngài, để tất cả những người tin nhận Con Thượng Đế đều không bị hư vong nhưng được sự sống vĩnh cửu”, nhấn mạnh tình yêu của Thượng Đế đã được ban ra là để cho người ta có đức tin dẫn tới việc ân xá cho người ta khỏi tội chết vĩnh viễn. Giăng đã đặc biệt nêu rõ điểm ấy: “Bị kết tội vì Ánh sáng trời đã soi chiếu thế giới nhưng người ta thích bóng tối hơn ánh sáng,v ì họ làm những việc ám muội”. Ở đây cũng có tình thương nhưng không phải là yêu thương Thượng Đế hay tình yêu thương của Thượng Đế. Bóng tối vốn hấp dẫn hơn; sở dĩ người ta bị phán xét, là vì họ yêu bóng tối hơn ánh sáng (Chúa Cứu Thế), sẽ chỉ bằng lòng sống trong bóng tối và nhận lấy mọi hậu quả của việc sống trong sự gian ác đó.
Có một trong những vấn đề của nhiều người làm công tác tư vấn có nhiệm vụ phải giúp đưa người ta từ chỗ tối tăm đến với ánh sáng, ấy là ít ra cũng trong thế giới Tây phương, niềm tin có điều xấu điều ác - dù là tập thể hay cá nhân - đều thường bị chối bỏ. Cho dù chúng ta có ăn năn quy đạo đến đâu đi chăng nữa, trong đời sống chúng ta vẫn còn nhiều lãnh vực ở đó bóng tối đang cầm quyền tối cao - mà nếu chúng ta không tin như thế thì cứ nhìn vào cách chúng ta đối xử hay muốn đối xử với các Cơ-đốc nhân bạn của mình thì đủ biết rồi, chứ chưa nói chi đến đồng bào đồng loại của chúng ta.
Tình yêu thương của Thượng Đế còn được mô tả minh nhiên hơn trong sách Giăng. Đó là lực lượng tích cực, ban sự sống của Thượng Đế, do chính bản tính của nó thúc đẩy chống lại các lực lượng của tội lỗi, hận thù và điều ác. “Người nào ghét ta cũng ghét Cha ta...Nhưng (bây giờ) họ đã thấy những việc ấy mà vẫn thù ghét ta và Cha ta”. Mục tiêu cuối cùng của tình yêu thương của Thượng Đế đã được tóm tắt trong điều mà Chúa Giê-xu gọi là “Lời cầu nguyện của Thầy Tế lễ Tối cao”; “Con không cầu xin Cha rút ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha giữ họ khỏi điều ác... Xin Cha dùng Chân lý thánh hoá họ. Như Con là Sứ giả Cha sai xuống đời, họ là sứ giả Con sai đi khắp thế giới”. Do đó, tình yêu thương của Thượng Đế đã được bộc lộ minh nhiên. Chắc chắn là nó bảo vệ, nhưng cũng tích cực và chủ động tiến hành, vì nó ban cho những người theo Ngài phần lý lịch mà họ cần có để đi vào trong thế gian và chinh phục nó để đưa trở về với Ngài. Đó là chủ đích của Phúc âm.
Xin thêm một lời bình luận. Tình yêu thương của Thượng Đế thường được truyền dạy hoặc tả vẽ như điều chúng ta trầm mình trong đó và thụ hưởng mà chẳng cần ghĩ đến hậu quả. Chúa Giê-xu đã không truyền dạy như thế. Với Ngài, nó vốn tích cực và năng động, cứ tiến hành và được dốc đổ ra, vừa phán xét và nâng đỡ, ban cho sự sống mới và điều quan trọng nhất, là một lý lịch mới. Tình yêu thương của Thượng Đế sẽ chẳng xâm chiếm được một điểm nào của Công Trình Sáng Tạo đã bị sa bại cả nếu trong tiến trình ấy, mọi việc đều vẫn y nguyên. Tình yêu thương của Thượng Đế là phẩm chất thiết yếu của Thượng Đế, biểu hiện sự thánh khiết của Ngài. Chính yếu tố ấy đã phân biệt Ngài với tất cả mọi vật thọ tạo khác, và cũng phân biệt những người theo Ngài y như thế. Có rất nhiều lời truyền dạy về bản tính của Thượng Đế vốn lấy yếu tố ấy làm trung tâm. Hội thánh là một cộng đồng đang tìm cách thể hiện tình yêu thương ấy của Thượng Đế, không phải vì chúng ta có thể tự lực làm nổi việc ấy, nhưng nhờ ân tứ Ngài ban cho chúng ta để vừa tự vệ tự tồn, vừa đi gieo rắc phổ biến.
Nếu lời truyền dạy của Chúa Giê-xu liên hệ đến tình yêu thương của Thượng Đế chẳng có gì hàm hồ cả, thì các hành động của Ngài cũng thế; chúng cứ giữ cho chúng ta luôn luôn hướng về tình yêu thương ấy. Hành động rõ ràng nhất là thập tự giá, nhưng trước khi nhìn vào đó, xin chúng ta chú ý một vài phương diện khác nữa của cuộc đời Chúa Giê-xu. Có một điều rất tốt để bắt đầu là ngay từ lúc khởi đầu - sự Giáng sinh của Ngài. Tình yêu thương của Thượng Đế cắt ngang phần quy ước và kêu gọi người ta phải mạo hiểm. Tuy bà Ma-ri chắc vốn phải có một ý thức kỳ diệu về vấn đề lời tiên tri phải được ứng nghiệm khi được thiên sứ thông báo về việc việc ấy, nhưng các hậu quả của nó vốn khó có thể được xã hội chấp nhận - thậm chí khi bà đã được hứa hôn với một thanh niên tốt như Giô-sép. Còn giô-sép chắc cũng phải nghi ngờ nhiều điều nữa. Sự căm tức và sợ hãi đối với nhà vua và cuộc đời sống lưu vong mơí chỉ là một phần của ý nghĩa của tình yêu trong thực te. Đó chưa phải là các dấu hiệu siêu nhiên vốn hết sức quan trọng, mà chỉ là một tai hoạ lớn đối với một đôi vợ chồng phải tha hương cầu thực nơi xứ lạ quê người, tất cả chỉ vì tình yêu thương của Thượng Đế. “Thượng Đế yêu thương nhân loại đến nỗi hy sinh”... vâng, nhưng với những người theo Chúa và được quyền trở thành con cái Thượng Đế thì không hề có sự bình an và an lòng nào là tự động hay rõ ràng cả. Với bà Ma-ri đã có một lưỡi gươm, sự quấy rối và đau khổ suốt cả đời. Với ông Giô-sép, đã có nghi ngờ và lưu đày - ít nhất cũng là một thời gian. Với Chúa Giê-xu, đã có con đường của sự cám dỗ và bị chối bỏ. Tình yêu thương của Thựợng Đế bay lượn trước mặt cả thế gian - “nhưng người ta thích bóng tối hơn ánh sáng”. Chúa Giê-xu chính là tình yêu thương của hượng Đế,v à chỉ về sau này, người ta mới nhận thức được rõ ràng điều đó có nghĩa gì. Cho nên, càng muộn màng hơn nữa về sau, Giăng mới có thể viết cho các Cơ-đốc nhân mới ăn năn quy đạo, và phấn khởi bảo với họ: “Ta không có gì phải sợ sệt; tình yêu trọn vẹn của Ngài xoá tan mọi khiếp sợ trong ta”. Với chúng ta, muốn đạt tới điểm ấy, chúng ta phải thừa nhận rằng tình yêu thương của Thượng Đế đã trực tiếp đưa chúng ta vàoc ác khu vực của sự sợ hãi, tại đó chúng ta phải trực diện với nỗi sợ tối hậu để biết rằng trong Ngài có sự sống. Cho nên sự chết đã bị mất đi nọc độc của nó, nhưng vẫn không làm cho sự sống trở thành dễ dàng. Chúng ta không cần phải sợ chết nữa (và tôi tự hỏi chẳng hay nó được nghiệm đúng được đến bao nhiêu). nhưng giờ đây, chúng ta phải đối diện với sự sống. Đây không phải là một cái gì xinh đẹp, chắc chắn trong đó những kẻ giống như chim đà điểu chúng ta có thể tránh được những điều gây tổn thương hay đưa đến sợ hãi. Nhưng khi phải trực diện với những điều mà chúng ta sợ hãi, giờ đây, chúng ta biết rằng trong tình yêu của Thượng Đế, chúng ta đã thắng trận rồi.
Thập tự giá.
Quay sang với thập tự giá chúng ta bắt đầu bằng một lời tuyên bố đầy quyền năng của Phao-lô vẫn còn vang vang xuyên qua lịch sử: “Riêng tôi không dám khoe khoang điều gì ngoài cây thập thập tự của Chúa Cứu Thế Giê-xu, và điều đó đã đến với chúng ta trong bài thánh ca nổi tiếng mở đầu là: “Đời tôi lấy thập (giá) làm hiển vinh, cao ngất trên thời cuộc điêu linh”. Có điều hết sức lạ lùng, ấy là thập tự giá, đối với người Do-thái là điều gây tai tiếng, đối với người Hi-lạp là điều ngu xuẩn, nhưng trên hết mọi sự lạilà dấu hiệu của tình yêu thương của Thượng Đế trong thế gian này.
Theo viễn ảnh của Phao-lô, bảo rằng Thập tự giá là chiến thắng khải hoàn là rất đúng. Theo quan điểm của ông, một phần là một chiếc giường của hi vọng, sự chết đã bị mất đi nọc độc của nó rồi. Với Chúa Giê-xu, đó là nỗi sợ hãi, cô đơn và dằn vặt hấp hối; với các môn đệ Chúa, đó là nỗi kinh hoàng, hoang mang làm tan rã mọi hi vọng và hoài bão của họ. Cho nên chúng ta rất dễ tìnhc ảm hoá Thập tự giá, trừ phi khi chúng ta nhìn thấy nó là câu trả lời của Thượng Đế cho tội lỗi của nhân loại. Đây không phải chỉ là một hành động anh hùng đẹp đẽ; cũng không phải chỉ là một đối xử bất công với một con người vô tội mà thôi. Nó không phải là điều ngu xuẩn hay gây tai tiếng, tuy nếu được xem như thế, ít ra cũng có chút ít hi vọng nào đó để có được một câu trả lời cho nó. Trong cách lý giải thứ nhất của hai cách lý giải chúng ta đã cho rằng nó hoàn toàn là sai lầm. Phao-lô đã viết thật hay trong thư La-mã khi ông tuyên bố: “Nhưng Thượng Đế đã chịu chết thay cho chúng ta là người tội lỗi. Tình yêu thương là yếu tố cấu thành phương pháp của Thượng Đế để đánh bại tội lỗi, mà tuyệt đỉnh của nó đã được nhìn thấy tại Thập tự giá”.
Sách Phúc âm Mác đã chứng minh điều đó rất nhiều lần. Sau lời tuyên bố rằng Chúa iê-xu là Đấng Mê-si-a, là ba lời báo trước sự Thượng Khó. Với Mác, đólà những câu tối quan trọng, là những nhát búa đập mạnh xuống trong cách trình bày thực tại về sự cứu rỗi của Thượng Đế đầy tình yêu thương của ông. Tầm quan trọng của ba lời tiên báo ấy trước hết là do vị trí của chúng - trong mỗi trường hợp, chúng đều đến tại điểm có khủng hoảng (sau lời tuyên bố Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, sau khi Chúa hoá hình và trong câu chuyện cậu bé bị quỉ ám; trên con đường khi họ đến gần Giê-ru-sa-lem với lời truyền dạy hết sức khó hiểu về cái giá phải trả cho việc theo Ngài). Chúng cũng quan trọng vì cách dùng từ ngữ. Ở đây, chúng ta không bàn đến vấn đề chẳng hay chúng có được tô điểm thêm cho đẹp đẽ hay không căn cứ vào sự kiện Mác đã biết rõ phần kết thúc ngay trước khi ông viết sách Phúc âm của mình. Điều có ý nghĩa là việc sự thương khó đã được trình bày bằng cách nhấn thật mạnh. Đây không thể chỉ là một vấn đề may rủi: “Ngài khai trừ và giết đi”. “Ta sẽ bị phản bội, nộp vào tay người ta, họ sẽ giết ta”. “Ta sẽ bị phản bội, bắt nộp...”. Cho nên ta chẳng ngạc nhiên bao nhiêu khi Gia-cơ và Giăng rất muốn biết khi việc ấy xảy ra, thì sẽ có gì xảy đến với hai vị! Trong cái chết của Chúa Giê-xu đã chẳng có gì là trường hợp ngẫu nhiên cả. Đó chính là chiến lược cứu rỗi của Thượng Đế.
Mẫu mực về chết và sống là tâm điểmc ủa tình yêu thương của Thượng Đế. Chết vượt hẳn một điều chỉ có liên hệ với phần thuộc thể mà thôi. Nó bao gồm mọi tình cảm trong toàn bộ chuỗi cảm thức của con người. Chúa Giê-xu phải trực diện với nỗi sợ hãi, cô đơn, nghi ngờ, tuyệt vọng, cả thức bất năng bất lực vô phương tự cứu, sự đau đớn thể xác và cơn hấp hối đáng sợ là bị hượng Đế bỏ quên. Ngài đã trực diện với chúng và đã chiến thắng. Đó là bức thông điệp của Phúc. Chẳng có gì của thân phận con người tạo ra, lại có đủ năng lực để thắng hơn tình yêu thương của Thượng Đế. Câu trả lời của Thượng Đế rất thẳng thắn và trực tiếp. Ngài thu hút hết tội lỗi của toàn thể vũ trụ với tất cả các phó phẩm của nó, và cứ yêu thương luôn. Cho nên, thay vì chỉ là tình cảm yếu đuối, nó rất mạnh mẽ và huỷ diệt tất cả, nó tung ra những lực lượng để trói buộc và ban cho loài người điều duy nhất mà họ đang cần hơn bất cứ điều gì khác - đó là hi vọng.
Hi vọng là thành tố có quyền năng nhất trong khi tiến hành công tác tư vấn. Hãy ban cho một người niềm hi vọng, thì người ấy sẽ được sự sống mới. Có rất nhiều phương thức tư vấn, dù vẫn tự xưng là tạo hi vọng, dường như thật ra chỉ là đem một hình thức nô lệ này để thay cho một hình thức trói buộc khác, tạo ra một loại những lệ thuộc sai lầm mà thôi. Chỉ có tình yêu thương của Thượng Đế mới tạo ra được mối liên hệ đích thực duy nhất - chỉ lệ thuộc vào một mình Ngài mà thôi. Đó là chủ đích của vị cố vấn. Tuyển tập các bài Cầu Nguyện Buổi Sáng của Anh quốc giáo đã tóm tắt điều đó rất hay khi tuyên rằng việc phụng vụ Thượng Đế là “hoàn toàn tự do”.
Trước khi tiếp tục để xét xem mọi việc này có thể ứng dụng thế nào vào tiến trình tư vấn, có lẽ chúng ta sẽ được lợi ích khi nhìn vào toàn bộ phần ý nghĩa hết sức rộng rãi của từ ngữ “yêu” để tự mình nhớ lại các ý nghĩa của nó. Ý nghĩa hiển nhiên nhất để bắt đầu, và chắc chắn đó cũng chính là ý nghĩa mà người thế gian bị ám ảnh nhiều nhất, là tình yêu trong tình dục. Nó là việc bộc lộ những điểm thu hút tự nhiên giữa người nam và người nữ. Các hấp dẫn tình dục luôn luôn có nơi chúng ta, và với nhiều người, tình dục dường như là cách bộc lộ đầy đủ nhất của bất kỳ một mối liên hệ nào. Sự thật không phải là như thế. Có nhiều lắm thì đó mới chỉ là dấu hiệu thể xác của một mối liên hệ đã có rồi mà thôi. Còn tệ hại nhất, thì nó đã thoái hoá để trở thành tham dục; một sự thoả mãn tạm thời cho tánh ích kỷ của thể xác và tình cảm.
Liên hệ gần với tình yêu tình dục là tình huynh đệ, hay như tôi từng gọi ở nhiều chỗ khác, là tình bạn. Đây là một tình yêu thương tuyệt vời gần gũi, nồng ấm, nâng đỡ nhau và đáng chấp nhận. Tình bạn là điều mà phần đông chúng ta đều cần đến trong phần lớn cuộc đời. Trìu mến quyến luyến (affections) và tình bạn đồng hành đồng chí (companionships) là những dấu ấn xác nhận tình bạc. Cởi mở và không sợ sệt phần lớn đều thuộc về nó. Gắn liền với nó là khả năng tiếp nhận phê bình chỉ trích, vì tình yêu đánh thăng bằng nỗi sợ bị ruồng bỏ vốn thường có tính cách đe doạ trong việc chỉ trích phê bình.
Khi cả hai tình yêu tình dục và tình bạn kết hợp lại với nhau, ta có nhữngthành tố đầy đủ trọn vẹn cho hôn nhân, vì tình yêu trong hôn nhân (vợ chồng) là một loại tình yêu khác nữa. Nó có kích thước của sự trường tồn và dấn thân trong mọi hoàn cảnh “trong thuận cũng như nghịch cảnh, giàu có cũng như nghèo hèn, bệnh tật cũng như khoẻ mạnh, cho đến khi nào sự chết phân rẽ chúng tôi”. Gia đình là kết luận hợp lý của tình vợ chồng. Phần lớn các đôi vợ chồng thấy con cái là điều thiết yếu của những điều họ trông mong khi kết hôn với nhau.
Cuối cùng có tình yêu thương của Thượng Đế - tình yêu thương tự hi sinh vì người khác. Từ ngữ Hi-văn agape có nghĩa áp đảo là dâng hiến, lo lắng chăm sóc cho người kia, là yêu thương tha nhân ít nhất cũng bằng như chúng ta yêu thương bản thân. Chính trong tình yêu thương này mới có việc tự yêu thương mình hay tự chấp nhận, vì nó công nhận điều lạ lùng của một đời sống do Thượng Đế ban cho để sử dụng nó phục vụ Ngài.
Nếu ba tình yêu tương trước có thể được xem là những hình thức tốt đẹp nhất của cách đáp ứng của loài người, thì agape là tình yêu thương mà chỉ một mình Thượng Đế mới có thể ban cho. Chúng ta thấy nó rõ ràng nhất tại Thập tự giá. Tình yêu thương của Thượng Đế là chất xi măng ràng buộc tất cả các loại tình yêu thương khác vào nhau. Nếu không có tình yêu thương, chúng ta sẽ không thể làm được gì cả. Nếu chúng ta không có một lối thoát cho tình yêu tình dục, chúng ta vẫn có thể tồn tại. Nó phải được khai thông sang một phương tiện sống nào đó, ở đó, nó tự bộc lộ thành một hình thức tự hiến thân nào đó. Loạn hôn không thể thay thế cho tình yêu, nó là một ngõ cụt khủng khiếp, nơi chẳng có thể sống đầy đủ bất kỳ một loại tình yêu thương nào khác. Chúng ta cũng cần có tình bạn; không có nó, chúng ta cũng chẳng làm gì được. Con người đã được dựng nên để sống trong một cộng đồng. Sống với những người khác sẵn sàng chấp nhận chúng ta là được hưởng điều thích thú của một đời sống đúng theo ý định của Thượng Đế. Không phải tất cả mọi người đều được kêu gọi vào đời sống vợ chồng, nhưng tất cả mọi người đều được kêu gọi để tự bộc lộ trong cộng đồng. Nếu Thượng Đế không kêu gọi chúng ta thiết lập một gia đình với một người bạn đời trong hôn nhân, thì rất có thể là Ngài đang kêu gọi chúng ta hãy tự bày tỏ mình ra trong những mối liên hệ khác, vốn cũng chẳng kém phần sáng tạo và hoàn thiện. Thế nhưng chẳng có tình yêu nào trong số đó lại có ý nghĩa tối hậu, trừ phi khi nó vượt khỏi cái cận tiếp để vươn tới và đạt đến lý tưởng tối hậu của Thượng Đế. Thượng Đế là Tình Yêu, cho nên mọi tình yêu thương đều phải vươn lên để đạt tới Ngài. Như Ngài vốn yêu thương chúng ta thể nào, thì sự thật là chúng ta có thể yêu thương nhau. “Tình yêu trọn của Ngài xoá tan mọi khiếp sợ”, đây là điều kỳ diệu của Thượng Đế - một tình yêu thương mà táh vị kỷ (chắc chắn vốn cũng là một yếu tố khác nữa của sự sợ hãi) đã được nâng lên để đạt được các chiều kích vĩnh hằng của một Thượng Đế đầy lòng yêu thương.
Tình yêu thương của Thượng Đế trong công tác tư vấn.
Phần đông những người đi cầu vấn đều có một vấn đề về lai lịch. Điều này không những chỉ nghiệm đúng đối với những người đi cầu vấn, mà mọi người chúng ta đều có vấn đề ấy đến một chừng mực nào đó. Tôi vốn không tự cho mình là bị mất thăng bằng (maladjusted) hơn những người được kể là trung bình, nhưng tôi nhận thấy rất khó chấp nhận rằng mình là một người co của Thượng Đế, hay tôi được nhiều người khác thương mến. Cả khi tôi cứ tiếp tục tự trấn an mình, tôi vẫn gặp khó khăn rất lớn để tin vào nhưng lời trấn an đó. Tận thâm tâm tôi vốn có một cảm thức đã bắt rễ thật sâu, là chẳng biết mình là ai, và sự thật là tôi chỉ biết quá ít về mình. Nhiều khi điều đó đã trở thành quan trọng đến nỗi như là một vấn đề cho tôi, khiến tôi phải nhờ đến sự giúp đỡ của một vị cố vấn. Vấn đề vốn hết sức đơn giản. Tôi không thể tin cậy cả Thượng Đế lẫn người nào cả; tôi cũng không thể tin cậy chính mình; và nếu tôi tự tin mình, thì tôi lại không thể sống bằng cái đức tin và đời sống mà Thượng Đế đã ban cho tôi. Chỉ khi nào tôi được giúp đỡ để từng trải tình yêu thương của Thượng Đế và chấp nhận rằng Ngài hiện đang yêu thương tôi và từ trước đến giờ vẫn yêu tương tôi luôn, thì tôi mới có thể an tâm với một phần lai lịch mà tôi không bị bắt buộc phải chứng minh, hay phải bận tâm lo lắng vì nó.
Cho nên trong thực tế, tình yêu thương của Thượng Đế có nghĩa là mọi phương diện của đời sống đều nằm dưới quyền cai trị và sự lo lắng chăm sóc năng động của của Thượng Đế. Đấng Thượng Đế yêu thương cũng chính là Đấng Thượng Đế đang sáng tạo. Với cương vị Đấng Tạo Hoá thì chẳng có gì là quá nhỏ mọn hay vô nghĩa cả. Nhiều người sẽ bảo rằng “họ không muốn quấy rầy Thượng Đế về những chuyện nhỏ mọn”. Điều này dù sao cũng hàm ý đề cập một Thượng Đế rất “người”, với một chiếc thang gồm nhiều cấp bậc về quyền ưu tiên. Nhưng tình yêu thương của Thượng Đế tuyên bố rằng mọi việc trong đời sống đều được Ngài lo lắng chăm sóc, và như thế, người ta chỉ tìm thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của chúng ở trong Ngài mà thôi. Với nhiều người thì đó chính là điểm để nương cậy và tăng trưởng: khám phá ra với lòng đầy kinh sợ rằng mình đang trực diện với một Thượng Đế xem mọi kinh nghiệm từng trải đều vô cùng quan trọng. Điều này có nghĩa là mọi từng trải đều được Ngài cân nhắc, phê phán. Như thế việc cân nhắc phê phán đó hoặc thật đáng sợ, hoặc sẽ giải phóng cho chúng ta. Hoặc là chúng ta không muốn cho Thượng Đế can thiệp vào (trong trường hợp này chúng ta sẽ tiếp tục thích bóng tối chứ không phải là ánh sáng), hoặc là chúng ta sẽ muốn bước đi trong ánh sáng. Như thế, việc chấp nhận nỗi đau hay niềm vui của sự phán xét là những con đường trên đó Thượng Đế hướng dẫn và giữ cho chúng ta bước đi trong ánh sáng. Như thế lai lịch là ân tứ mà Ngài ban cho chúng ta. Giúp người ta biết tình yêu thương của Thượng Đế, và biết rằng trong tình yêu thương ấy họ có một ý nghĩa, là một ưu quyền của vị cố vấn. Điều này nói thì dễ hơn làm. Đó là một tiến trình trong đó những nỗi đau của việc bị ruồng bỏ và sự lạc lõng vì bị hư vong những chỗ cho ý thức rằng trong toàn cõi thọ tạo tôi là người độc nhất được yêu dấu và có một chủ đích. Điều này có nghĩa là trực diện với sự hư vong và dám nhìn vượt lên để thấy một đời sống mới.
Tình yêu thương của Thượng Đế cũng đem sự phán xét đến. Nhiều người khi nghe nói phán xét thì nghĩ đến một Thương Đế thích báo thù, lấy làm vui khi thấy những kẻ đã được mình tạo nên bị nướng đời đời ở đầu một cây chĩa ba của ma quỉ. Đó không phải là Thượng Đế của Thánh Kinh. Sự phán xét cũng không phải chỉ được thấy trong các điều kiện độc nhất của một toà án, tuy hình ảnh này phần lớn nằm trong các sách tiên tri và Khải huyền và chắc chắn cũng có một vai trò trong lời truyền dạy của Chúa Giê-xu. Khải tượng về sự phán xét của Thánh Kinh là một Thượng Đế yêu thương chúng ta đến nỗi chịu chết vì chúng ta và là Đấng do tình yêu thương, đã chứng minh cho chúng ta thấy là chúng ta đã sa ngã, bất cập đối với hình tượng của Ngài như thế nào. Bản án tối hậu là hoàn toàn bị loại ra ngoài phạm vi nhìn thấy của Thượng Đế. Nếu đã ở đó thì lẽ dĩ nhiên là chúng ta sẽ khóc lóc và nghiến răng, không phải vì chúng ta bị nhốt ở đấy, nhưng là vì một khi đã bị loại khỏi ảnh hưởng và tình yêu thương của Thượng Đế, chúng ta chẳng còn là gì nữa cả. Đó là sự đày đọa đời đời; đó cũng là điều mà người ta sợ nhất.
Sự phán xét đã được đem ra đối chiếu với tình yêu thương trọn vẹn của Thượng Đế để nhận thấy y như nó vốn có. Đó là một từng trải gây tàn phá, nhưng lạ lùng thay, nó cũng ban cho sự sống nữa. Vì nó ban hi vọng trong một hoàn cảnh mà nhiều người đang thất vọng. Nó đập tan xiềng xích đáng sợ của một cuộc đời chẳng có một chủ đích nào khác hơn là làm theo ý muốn đen tối của chính ta. Với nhiều người, sự phán xét của Thượng Đế là một khoảnh khắc của sự giải phóng và sự sống thuần tuý.
Tuy nhiên, hãy còn một yếu tố khác nữa trong đó. Với nhiều người sở dĩ có sự phán xét của Thượng Đế, là vì họ cố tình và cố ý không chịu vâng lời. Người bỏ bê gia đình mình, cuối cùng sẽ phải trực diện với sự hán xét. người ấy chấp nhận điều đó như thế nào, sẽ xác định người ấy và gia đình mình sẽ sống hay chết.
Hồi còn là sinh viên đại học, có lần tôi xuất ngoại theo một chuyến đi chơi bóng bầu dục và đã cố ý thản nhiên say sưa, Trường đại học vốn nhỏ bé nên các tin tức lan ra rất nhanh. Biến cố ấy đã gây tai tiếng và hoang mang giữa vòng các Cơ-đốc nhân trong khu đại học. Sự việc xảy ra như thế là đúng. Buổi tối tiếp sau đó có một người mà tôi chẳng bao giờ thích, cũng đang học ngành mục sư, đã đến phòng tôi và bảo rằng hành động của tôi là đáng xấu hổ và rằng tôi đã phản bội cả Thượng Đế lẫn Hội thánh Ngài. Anh ta tiếp tục bảo rằng anh ta sẽ không rời khỏi phòng tôi trước khi tôi chịu ăn năn. Sự thật về vấn đề này, là tôi cũng cảm thấy tự ghê tởm mình, nhưng tánh kiêu ngạo của tôi khước từ, không cho tôi nó lời nào với người mà tôi rất không ưa đó. Anh ta cứ kiên trì, tôi đã nhượng bộ, và được từng trải có lẽ là lần đầu tiên trong đời, cái ý thức áp đảo của sự tha thứ và tình yêu thương, tương phản với tội lỗi cố ý khủng khiếp của mình. Qua nhiều năm rồi, tôi vẫn chưa học tập để ưa thích con người cá biệt ấy nhiều lắm. Anh đang là một linh mục giỏi ở Nam Phi, và tuy tôi tạ ơn Thượng Đế vì anh, tôi vẫn chưa dám chắc là chúng tôi có nhiều điểm giống nhau. Tôi kể lại câu chuyện này vì nó có một số điểm cần chú ý.
Trước hết, là hành động của tôi đòi hỏi điều mà Howard Clinebell mô tả là “Tư vấn Mặt đối Mặt”. Vì chẳng có gì khác lạ có thể đưa tôi thoát khỏi được cái kén của sự thách thức và tự cho mình là công chính ("Tôi có thể tự hướng dẫn lấy đời sống riêng của mình - Họ là ai mà dám dạy tôi phải làm gì?"). Hơn nữa, Ted cũng đã không ngồi ghế quan toà để xét xử tôi. Anh đã không bảo rằng anh là người tốt hơn tôi - anh chỉ nói rằng cách ăn ở cư xử của tôi là bất cập so với những đòi hỏi đối với một người theo Chúa Cứu Thế. Anh cũng đã không gỡ tôi ra khỏi chiếc lưỡi câu, cũng không bỏ mặc tôi ra đi với chính cách ăn ở cư xử của mình. Do đó, sự ăn năn và tha tội đã đem đến cho tôi một ý thức về sự hiện diện của Thượng Đế trong đời sống tôi mà trước đó tôi chẳng hề hay biết. Cảm ơn Thượng Đế về Ted.
Chức vụ tư vấn bao gồm việc giúp người ta đến với tình yêu thương của Thượng Đế, một tình yêu thương thiêu đốt các chất cặn bã trong khi nó thanh lọc đời sống. Người cố vấn phải ý thức điều đó, và cũng ý thức rằng chính mình cũng đang ở dưới cùng một sự phán xét ấy. Niềm vui lớn lao thứ hai trong công tác tư vấn là được thấy người ta tăng trưởng trong lòng tin cậy - tin cậy Thượng Đế, bản thân, tha nhân. Việc này cũng xảy ra khi chúng ta ý thức rằng tình yêu thương của Thượng Đế ban cho đời sống chúng ta một định hướng và một chủ đích. Điều thiết yếu là phải nhận thức rằng mọi tình yêu thương khác của con người đều đặt cơ sở trên Ngài. Cho nên chúng ta cần đến tình yêu, tình yêu loài người và tình yêu Thượng Đế đồng thời, để tìm được sự hài hoà và cân bằng cho cả đời sống. Công tác tư vấn thường bao gồm việc cố gắng giúp một người lìa khỏi hay thậm chí từ bỏ một phương diện nào đó của tình yêu thương của con người để có thể tìm gặp tha nhân. Bị tình dục ám ảnh sẽ cắt đứt tình bạn của chúng ta. Bị gia đình ám ảnh có thể cắt đứt các tình bạn khác. Dấn thân quá đáng vào bất cứ một tình thương yêu nào trong số đó có nghĩa là chúng ta không đủ khả năng để thừa nhận hay tiếp nhận tình yêu thương của Thượng Đế.
Ở phần đầu của chương sách này, tôi đã trích dẫn trong quyển “The Hound of Heaven” của Francis Thompson. Tôi xin kết thúc bằng những giòng cuối cùng dưới đây - vì chúng đã nói tất cả rồi và nói hay hơn tôi. Cuối cùng thì tác giả đã thôi chạy và chờ đợi sự phán xét đáng sợ của Thượng Đế. Đây là Thượng Đế đang phán (những chữ cho in nghiêng là do tôi).
“Ngươi sẽ tìm đâu ra người chịu yêu thương kẻ bần tiện như ngươi Trừ ra Ta, ngoại trừ chỉ một mình Ta? Tất cả những gì Ta đã cất khỏi ngươi, Ta chỉ cất đi, Không phải là để cho ngươi bị thiệt hại Mà chỉ để cho ngươi có thể tìm thấy nó trong cánh tay Ta Tất cả những sai lầm trẻ con của ngươi Những ước mơ đã mất, Ta đều thu chứa cho ngươi tại nhà. Hãy đứng lên, nắm lấy bàn tay Ta, và đến đây!” Rút cục, nỗi u sầu đã khiến tôi dừng bước Bên cạnh chiếc bóng của bàn tay Ngài Đang vươn ra để vuốt ve mơn trớn “Đây rồi, kẻ mà ta yêu mến nhất (nhưng cũng) đui mù, yếu đuối nhất, Ta là Đấng mà ngươi đang tìm kiếm! Ngươi đang kéo lại tình yêu đã lìa xa ngươi, ngươi đang kéo Ta lại”.
Sách Gia Đình và Hôn Nhân