CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
INTERPERSONAL RELATIONS
Hùng vừa được thăng chức lên làm giám đốc kinh doanh cho chuỗi cửa hàng điện tử. Mỗi người trong công ty đều nhận ra tài năng của anh. Hầu hết các kết toán hàng tháng, anh bán nhiều hơn những người khác. Tiền hoa hồng và tiền thưởng của anh rất hậu hỉ.
Khách hàng của Hùng thán phục sự hiểu biết về những máy móc điện tử và sự hấp dẫn, sự vui vẻ của anh – điều này rất có ích cho anh và cho việc buôn bán. Khi anh xuất hiện ở cửa hàng, anh làm việc hăng say và vui vẻ, thích thú trong công việc. Khách hàng của anh rất thích và bị cuốn hút khi anh nói. Anh cung cấp những dịch vụ tốt cho khách hàng.
Nhưng Hùng đã không thân thiện gì với những đồng nghiệp trong công ty. Anh thiếu kiên nhẫn với những câu hỏi của họ, và không bỏ qua một lỗi lầm nào của họ. Khi anh là giám đốc kinh doanh, anh bắt buộc thuộc cấp phải đến đúng giờ, và anh không ngại trách mắng nặng lời nếu ai vi phạm; nhưng thỉnh thoảng chính anh cũng đến làm việc trễ. Anh bắt buộc xét tín dụng của khách hàng rất kỹ lưỡng, và đòi mọi người phải giữ những nguyên tắc của công ty một cách không nhân nhượng; thế nhưng anh đã không áp dụng triệt để những nguyên tắc này khi anh giải quyết với những khách hàng của riêng anh. Mỗi khi xếp trên đưa ra những chỉ dẫn cho anh, anh đều có phản ứng kháng cự lại. Anh giả vờ làm ngơ những lời chỉ dẫn của xếp và tự làm theo ý riêng của mình.
Cuối cùng anh bị đuổi việc. Không có lời bình phẩm nào về năng lực của Hùng. Rõ ràng anh bị mất việc chỉ vì đã không có thái độ cộng tác và hòa đồng với bạn đồng sự.
Hùng luôn luôn gặp khó khăn trong việc thân thiện với những người khác, đặc biệt là những người có quyền lực hay cấp trên của anh. Khi còn trẻ, cậu thường cãi vả và không hòa hợp với cha cậu; cậu thường có những mâu thuẫn với các thầy cô giáo của mình. Cậu luôn luôn muốn hơn em cậu và thể hiện thái độ kẻ cả đối với mọi người chung quanh.
Một người nào đó đã đề nghị Hùng nên tìm người khải đạo, nhưng anh đã quyết định tìm một công việc khác theo cách riêng của anh, và sau đó vấn đề lại trở nên như cũ. Một người bạn của anh cho rằng Hùng có thể e ngại gặp người tư vấn. Có phải chăng anh nghĩ rằng họ sẽ đối xử giống như cha anh không?
Hùng là một chàng thanh niên trẻ tuổi, có nhiều khả năng trong công việc kinh doanh, thông minh, có sự hiểu biết rộng về kinh doanh, và có tiềm năng lớn trong lãnh vực buôn bán lẻ. Thế nhưng anh không thể thân thiện với những người khác được, anh chỉ muốn kiểm soát mọi người và khiến họ làm theo cách riêng của anh. Không có một loại giúp đỡ nào thích ứng cho anh, anh không thích mình thay đổi.
Con người sinh ra là để sống trong xã hội. Vào lúc sáng tạo, Đức Chúa Trời đã phán rằng loài người ở một mình không tốt. Ngài đã đem cho A-đam một người giúp đỡ, Ngài đã dạy dỗ dòng giống loài người phải được gia tăng, và Ngài đã cho phép chúng ta gia thêm hàng tỉ người và bây giờ có rất nhiều người trên hành tinh Trái đất này.
Chỉ cần hai người trở lên đến với nhau là đủ thiết lập mối quan hệ cá nhân giữa họ. Có những mối quan hệ tốt, các thành viên hỗ trợ lẫn nhau và được ghi nhận là giữa họ có sự giao tiếp rõ ràng, cô đọng, và hiệu quả. Tuy nhiên, đáng buồn thay, đa số các mối quan hệ cá nhân thường có vấn dề. Thời đại ngày nay, đàn ông cũng như phụ nữ rất kiêu ngạo, họ có chủ nghĩa cá nhân của riêng họ, sự độc lập, và sự tự quyết định riêng của mình. Các đặc tính này khiến con người muốn sống ốc đảo, chai lì với cảm xúc của tha nhân, và dần dần dẫn con người vào trong chỗ lạnh cảm, cô đơn và khó thể hòa đồng với người chung quanh. Chúng ta sống trong thời đại thông tin, với quá nhiều thông tin, dữ liệu và những thiết bị kỹ thuật tân tiến giúp cho sự thông tin liên lạc và sự can thiệp vào đời sống cá nhân; thế nhưng chúng ta vẫn còn không hiểu nhau được, hoặc hiểu nhầm nhau, không dễ kết bạn với người khác, và cảm thấy cô độc. Cách đây nhiều năm, nhà tâm thần học Harry Stack Sullivan cho rằng – tất cả mọi sự trưởng thành và việc điều chỉnh hay sự chữa lành cá nhân, cũng như tất cả những sự hủy hoại và những sự thoái lui cá nhân đều xuất hiện qua các mối quan hệ với những người khác. Tất cả mọi tư vấn, và hầu hết mọi vấn đề nêu ra trong quyển sách này đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với các mối giao tiếp cá nhân. Cách thức làm sao để hòa đồng với tha nhân, bao gồm cách thức đối thoại, phải là mối quan tâm cốt lõi cho các tư vấn viên Cơ Đốc.
KINH THÁNH VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Kinh Thánh ghi lại bề dày lịch sử loài người về các vấn đề cá nhân và những sự gãy đổ trong quan hệ tiếp cận. A-đam và Ê-va, cặp vợ chồng đầu tiên đã đổ lỗi cho nhau về nguyên nhân phạm tội của họ trong vườn Ê-đen. Hai đứa con trai đầu tiên của họ cũng đã mâu thuẫn gay gắt với nhau đến nỗi đưa chúng tới tội sát nhân. Sau đó, khi dân số ngày càng gia tăng, trái đất đầy dẫy sự bạo động (Sángthếký 6:11,13) Một vài năm sau cơn nước lụt, các gia nhân của Áp-ram và Lót đã bắt đầu gây hấn nhau, từ tranh chấp trong gia đình sau nổ ra hàng loạt các cuộc chiến tranh triền miên khắp cả trong lịch sử Cựu Ước.
Sang thời Tân Ước, vấn đề cũng không khá hơn. Các môn-đồ của Chúa Jêsus đã tranh cãi nhau dành phần tôn cao hơn hết trong nước Thiên đàng (Lu 22:24) Trong Hội Thánh đầu tiên, A-na-nia và Sa-phi-ra đã nói dối với các tín hữu khác; người Do-Thái và người Hy-Lạp có nhiều điều đố kỵ nhau và đã có cãi lẫy cả về tín lý (Côngvụ 5,6:1; 15:2,7) Nhiều lần trong các bức thư của ông, Sứ-đồ Phao-lô đã đau lòng về sự mất đoàn kết trong Hội Thánh và kêu gọi sự hiệp thông trong Hội Thánh. Trong các hoạt động truyền giáo cá nhân của ông, ông bị liên lụy nhiều lần vào các mâu thuẫn, cãi lẫy và phân rẽ giữa vòng hội thánh ( Có một dịp, ông đã viết lại cho những người Cô-rinh-tô rằng nếu như ông đến viếng thăm họ, ông e ngại ông sẽ phát hiện ra giữa vòng họ có nhiều đều “rầy-rà, ghen-ghét, nóng-giận, bất-hòa, nói-hành, kiêu-căng, hỗn loạn chăng”; và các bằng chứng khác về các mối quan hệ cá nhân căng thẳng.
Mặc dầu Kinh Thánh kể lại nhiều ví dụ về chuyện bất hòa, những xung đột cá nhân nhưng không phải kể để mua vui một vài trống canh. Trái lại, sự xung đột hay cãi cọ đó bị Kinh Thánh nghiêm cấm và những nguyên tắc gây dựng các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp được đề cập đến thường xuyên. Sách Châm-ngôn hướng dẫn và dạy dỗ chúng ta hãy cầm giữ miệng lưỡi và tránh điều bất hòa, hãy nói sự thật, nói êm dịu, suy nghĩ trước khi nói, lắng nghe cẩn thận, chống tội nói hành, tránh xu nịnh hay tâng bốc, và tin cậy nơi Đức Chúa Trời.( Ch 10:18-19;12:22; 13:3;15:1;28,31;16:24,28;17:9;19:22; 24:26;26:20;28:23,25) Cơn giận thiếu tự chế, những lời nói vội vàng, sự kiêu căng hợm hĩnh, tự cao, hai lòng, ganh ghét, tranh chiến để tìm điều hơn thua của thế gian và nhiều hệ lụy tệ hại khác mà Kinh Thánh chỉ ra là cội nguồn của những quan hệ xấu giữa các cá nhân.
Sự dạy dỗ này cũng xuất hiện trong nhiều sách khác nữa. Gần trọn bài giảng trên núi của Đức Giêxu bàn đến các mối quan hệ cá nhân (Mat 5:7) Xuyên suốt những năm thi hành chức vụ của Ngài, Đức Chúa Jêsus đã thực hành và giáo huấn nhiều giải pháp giải quyết mâu thuẫn giữa con người (Mat 18:15-35; 20:20-28; 22:36-40; Lu 12:13-15;22:24-26). Phao-lô cũng khuyên Ti-mô-thê không nên cãi vã, lại càng không nên lụy vào những chuyện không quan trọng. Chỗ Kinh Thánh khác cũng cho nhiều hướng dẫn về cách sống hòa thuận với nhau, thể hiện tình yêu thương, và nhiều lời khuyên dọn sạch sự cay đắng và thịnh nộ bằng tấm lòng mềm mại, tha thứ, hiền hòa(Mac 9:50; IITi 2:14;Phi 2:1; ITe 5:13;ICo 13:4-8; Eph 4:31-32) Sứ đồ Gia cơ, sau khi nói lời cảnh báo những người cố ý gây khó khăn và mâu thuẫn trong vòng hội chúng đã kết luận nguyên nhân của nó chính là bởi lòng tư dục và ganh tị cá nhân (Gia 4:1-2). Chỗ khác, sứ đồ Phao-lô liệt kê một bảng hướng dẫn thú vị và thực tế cho cách sống; trong đó Phao-lô dạy cách để tránh sự trả thù là “chớ lấy ác trả ác cho ai,” và hết sức cố gắng để ở cho hòa thuận với mọi người.(Ro 12:17-18)Chúa Jêsus và các tác giả Kinh Thánh là những người hòa giải; Ngài và họ đã dạy và sống như vậy; Ngài và họ trông đợi các tín hữu ngày nay cũng trở nên những người hòa giải (Mat 5:9;Ch 12:20;He 12:24)
Sau đây là nguyên tắc rút ra từ trong Kinh Thánh về các mối quan hệ cá nhân:
1.Các Mối Quan hệ Cá nhân Tốt đẹp đều Bắt đầu với Đức Chúa Jêsus Christ.
Các bài hát và thiệp Giáng Sinh nhắc nhở chúng ta về Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa Bình an.(Lu 2:14;Es 9:6)Trong suốt cuộc truyền giáo của Ngài, Ngài đã tiên đoán trước về sự căng thẳng, bất bình sẽ có thể xảy ra giữa những người theo Ngài và những người bà con, bạn bè bên ngoài của họ (Mat 10:34) Ngài gọi “sự bình an của chúng ta” tức là những ai có thể bẻ gãy những rào cản, những bức tường thù hằn ngăn cách giữa chúng ta.(Eph 2:14-17)
Môn đồ của Đấng Christ được hứa ban cho, theo cách siêu nhiên, một sự bình an có tiềm năng ổn định nội tâm, ngay cả trong hoàn cảnh nhiễu loạn, căng thẳng (Gi 14:27;Phi 4:7). Sự hòa bình với Chúa sẽ đến khi chúng ta xưng ra mọi vi phạm của mình, cầu xin Chúa tể trị đời sống ta, và cầu xin sự bình an y theo Lời Ngài hứa. Đổi lại, sự bình an này phải vận hành trong uy lực trấn an chúng ta ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn.
Vậy thì tại sao các cơ đốc nhân thường gặp nhiều mâu thuẫn giữa vòng họ và mâu thuẫn với cả thế giới bên ngoài? Tại sao nhiều người chúng ta không thể hòa đồng với tha nhân được?
2.Các Mối Quan hệ Cá nhân Tốt đẹp Phụ thuộc vào các Đặc điểm Cá nhân.
Không có gì là sai quấy khi phải ngồi xuống thương lượng, nói cho ra chuyện với nhau nhằm vượt qua những dị biệt, khó khăn giữa cá nhân hay giữa tập thể, quốc gia. Những cố gắng giãn hòa như thế rất có ích, nhưng Kinh Thánh nhấn mạnh hơn vào thái độ và đặc điểm của những con người liên quan cuộc tranh chấp.
Trong lá thư đầu tiên Phao-lô gửi cho người Cô-rinh-tô, ông đã xếp ra ba loại người.(ICo 2:14-3:3) Trươc hết là loại người chưa tin Chúa. Dĩ nhiên, có những cá thể dị biệt, nhưng nhóm người này mang đặc điểm phóng đãng tình dục, vô đạo đức, trác táng, hành nghề đồng bóng, ghen tị, tranh chấp, hung hãn, tham lam ích kỷ, tham vọng tư dục, chia rẽ, bè phái, và nhiều hành vi không tự chủ
(Ga 5:19-21). Nhóm người này có thể khao khát và phấn đấu cho sự bình an, nhưng căn bản xa cách khỏi Đức Chúa Trời của họ làm cho sự hòa thuận bên trong và sự bình an cá nhân không thể đạt được. Nhóm thứ hai là loại người sống theo thế gian, họ đã cam kết sống cho Đấng Christ, nhưng họ chẳng bao giờ trưởng thành thuộc linh. Họ hành động như loại người vô tín và thường có sự ghen tị và cãi lẫy. Vì quá nhiều thành viên Nhà thờ ở trong loại này, chúng ta gặp nhiều thảm cảnh các tín hữu mâu thuẫn gay gắt nhau, thậm chí còn có mâu thuẫn bạo lực với láng giềng của họ và với nhau. Nhiều Cơ Đốc Nhân thế gian này vẫn đọc Kinh Thánh thường xuyên và có một số hiểu biết tốt về lý thuyết, nhưng niềm tin của họ chỉ ở mức độ có tri thức mà hiếm khi áp dụng Lời vào đời sống và vào các mối quan hệ cá nhân. Ngược lại, nhóm thứ ba là loại người thuộc linh, là các Cơ Đốc Nhân luôn nhường quyền điều khiển cuộc sống mình cho Đấng Thuộc Linh và họ luôn đeo đuổi cách suy nghĩ và cách sống như Đấng Christ. Thỉnh thoảng nhóm người này trơn trượt vào phương cách và những hành động thế gian cũ, nhưng thường hơn, cuộc sống của họ thể hiện bằng chứng của “những trái Thánh-Linh” – liên quan tới tình yêu thương, vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, và tiết độ.(Ga 5:22-23)
Khi người ta được thay đổi bên trong, một tiến trình thay đổi chậm rãi thể hiện ra bên ngoài, bắt đầu với cách cư xử của họ. Trong thời gian thay đổi, điều này có thể làm cho họ xây dựng các mối quan hệ cá nhân tốt hơn. Những cố vấn Cơ Đốc có thể ghi nhớ một nguyên tắc quan trọng: đối với sự bình an thật mà ta cảm nhận được từ nội tâm hoặc với mọi người, đầu tiên phải có sự bình an với Đức Chúa Trời. Điều này có được khi người ta cam kết dâng đời sống của họ cho Đấng Christ, có nhiều thời gian hàng ngày để thờ phượng, cầu nguyện, và suy ngẫm Lời của Đức Chúa Trời, bắt chước để có những suy nghĩ và hành động thay đổi.
3.Các Quan hệ Cá nhân Tốt đẹp Liên quan tới sự Quyết định, Nổ lực, và Kỹ năng.
Các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp không luôn luôn xảy ra tự động, ngay cả đối với các Cơ Đốc Nhân tốt. Kinh Thánh và tâm lý học đồng ý với nhau – các mối quan hệ tốt đẹp phụ thuộc vào sự phát triển thích hợp và sự ứng dụng những kỹ năng, như là biết lắng nghe một cách chăm chú, xem xét, hiểu chính mình và những người khác; kiềm chế những lời phê bình hay chỉ trích không tốt, hoặc những cơn thạnh nộ về cảm xúc, và giao tiếp một cách thích hợp. Tất cả những điều này cần phải được học hỏi; tất cả những điều này đều có thể được dạy dỗ bởi một cố vấn Cơ Đốc hiểu biết.
NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC VẤN ĐỀ TRONG
MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Tại sao người ta không thể thân thiện với nhau? Điều này đã được tranh cãi hằng thế kỷ, và các câu trả lời dường như khác nhau tùy trường hợp. Vì vậy, các nguyên nhân có thể được tóm lượt trong vài loại sau đây:
1.Sự Can Dự của Sa-tan.
Sa-tan được mô tả trong Kinh Thánh như là kẻ dụ dỗ và cha của sự nói dối, chính là kẻ giả trang như một thiên-sứ sáng láng và đi rình mò chung quanh để cám dỗ nhiều người và tìm kiếm người nào nó có thể cắn nuốt.(Kh 12:9;Gi 8:44; IICo 11:13-15;Giop 1:7;Mat 4:3;ITe 3:5;; IPhi 5:8) Mặc dầu nhiều người không tin hoặc cười nhạo sự hiện hữu của nó; ma-quỷ và bè lũ rất hung hãn. Cơ Đốc Nhân luôn được dạy phải vững vàng chống cự lại mọi quỷ kế của Satan trong danh của Đức Chúa Jêsus Christ.(Eph 6:10-12; Gia 4:7;IPhi 5:8)
Theo như một học giả Thánh Kinh, “những khát vọng tham lam và tự cho mình là trung tâm của vũ trụ, thuật ngữ ngoại giao dối trá trong thế giới chính trị, lòng căm thù chua cay và sự tranh đua trong thế giới thương mại, các trào lưu vô thần của phần nhiều người trong xã hội - tất cả đều là sản phẩm của Sa-tan.” Trên bình diện cá nhân hơn, Sa-tan “chú ý đặc biệt vào các mối quan hệ Cơ Đốc, và lập mưu mô nhằm quật ngã con cái Chúa hoặc ít ra cũng thoái hóa các quan hệ này.” Cốt lõi của mâu thuẫn cá nhân luôn luôn có bàn tay phù thủy của Sa-tan.
Thật ra Satan không có toàn quyền. Người tin Chúa biết rằng Đức Chúa Trời là đấng Toàn Năng, trội hơn các quyền lực của ma-quỷ. Ma-quỷ chỉ có quyền lực giới hạn và số phận cuối cùng của nó là địa ngục.(IGi 4:4; Mat 25:41; Kh 20:7-10) Nhưng hiện nay chúng còn đang trong thì dãy dụa để hành hại các con cái của Đức Chúa Trời, và nó được phép gieo rắc căng thẳng và gieo rối mâu thuẫn cá nhân cho thế gian.
2.Tùy thuộc vào Thuộc tính, Thái độ, và Phản ứng cùa Cá nhân.
Không có con người hoàn hảo, chỉ có những người dễ thân thiện và những người khác kém thân thiện hơn. Sự căng thẳng cá nhân thường bắt đầu và leo thang với những người có cá tính, thái độ hành xử, quan niệm sống, cảm xúc cá nhân, phong cách cư xử vốn dễ gây ra mâu thuẫn và ngờ vực. Một lần nọ, một người đàn ông đến với Chúa Jêsus thưa rằng “Thầy, xin biểu anh tôi chia gia-tài cho tôi.” Thay vì làm người phân xử, Chúa Jêsus đã đưa ra một lời cảnh báo chống lại kẻ tham lam.(Lu 12:13-15) Rõ ràng mâu thuẫn gia đình của người đàn ông này đã xảy ra bởi vì cá tánh tham lam của họ. Lần khác, Chúa Jêsus cũng đã cảnh báo chúng ta chống lại thói moi móc lỗi của người khác trong khi chính chúng ta thì đầy dẫy lỗi lầm.
(Mat 7:3-5)
Những thói tật phá hỏng mối quan hệ cá nhân tốt đẹp, bao gồm:
• Nhu cầu ích kỷ của kẻ muốn thu hút quyền chỉ huy, muốn được chú ý, muốn tiền bạc, danh vọng.
• Một thái độ đắng cay và không tha thứ.
• Tánh hay bắt bẻ, xét đoán, hay la mắng.
• Nỗi ám ảnh bất an ảnh hưởng đến cách cư xử như là sợ bị từ chối, không dám tin vào người khác.
• Hay xét đoán theo định kiến, thường nghĩ xấu cho người.
• Không có thiện chí “cởi mở” và chia sẻ cảm giác và suy nghĩ của mình.
• Không chấp nhận tính đa dạng của từng cá nhân (tức là tính độc đoán khi ép buộc mọi người phải suy nghĩ giống như mình).
Có thể là không đúng khi cho rằng tất cả những thói trên là những cố gắng có chủ tâm. Sự không tha thứ, giữ lòng thù hận, hoặc đòi mọi người phải theo ý mình đều là tội lỗi, và ta có thể trừ bỏ các thói xấu đó nếu có ước muốn và có quyết tâm, không cần phải có sự trợ giúp nào. Ngược lại, tánh sợ sự thân mật, sự ngượng ngùng bẩm sinh, hoặc tánh đa nghi lại là những ám ảnh hằn sâu trong tâm trí và cần có bạn bè hoặc người cố vấn giúp đỡ.
Tuy nhiên, nhiều người thỉnh thoảng cư xử theo cách thức muốn kiểm soát người khác và chính họ tạo ra sự căng thẳng. Chẳng hạn như, nhiều người tưởng rằng cách tốt nhất để động viên đối tượng là phải đặt đối tượng dưới một áp lực nào đó. Đây là một triết lý tạo căng thẳng chủ trương rằng “Công việc của tôi không phải để chịu vết loét: công việc của tôi là tạo vết loét cho đối tượng!”
Một cố vấn điều hành ghi nhận rằng các vấn đề cá nhân thường xẩy ra hơn khi có những loại người khó chịu can dự vào. Những người này không có nhiều, nhưng họ có một sức ảnh hưởng lớn và nhiều khả năng để gây rối cho người khác. Những người khó chịu bao gồm những người có cá tính hay trau chuốt sự kiêu ngạo đỏm đáng, hay chỉ trích cay độc, thiếu tế nhị, hay tấn công, và sẵn sàng “nổi điên” lên nếu không được thỏa mãn. Buồn cười là, họ là hay phàn nàn, hay tìm vết trong mọi thứ, nhưng chẳng bao giờ tự hoàn thiện mình trước những lời than phiền của người khác; bởi vì họ không nhận trách nhiệm. Một số người khó chịu khác thì im lặng, ít nói và hiếm khi tiết lộ điều mà họ đang suy nghĩ hoặc điều họ đang làm. Một số khác có thể luôn luôn đồng ý và không gây hấn, nhưng rất khó làm việc chung với họ; bởi vì chính họ ôm đồm nhiều thứ và rồi không thể thực hiện những lời cam kết của họ. Ngược lại, những người có cá tính tiêu cực là những người có thái độ bi quan, không chịu chấp nhận bất cứ điều gì người khác đề nghị; vì vậy rất khó mà cộng tác hay thay đổi họ. Lại cũng có những loại “chuyên gia” thích vênh váo, chơi nổi, ta đây biết hết mọi điều và không có tinh thần cộng tác với người khác. Loại người nữa là người không tự quyết, hay do dự, họ chẳng bao giờ hành động hoặc có những quyết định cho tới khi họ hoàn toàn chắc chắn sự quyết định ấy là đúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết loại người này chẳng bao giờ hành động. Hầu hết các cố vấn nhận thấy những biểu hiện này trên khách hàng của họ, trên các đồng nghiệp, các Cơ Đốc Nhân, và cả người nhà của họ. Nhưng độc đáo hơn hết là chúng tôi (người hành nghề cố vấn) thấy các biểu hiện này trên chính con người chúng tôi nữa.
3.Mô hình Mâu thuẫn.
Mâu thuẫn xảy ra khi hai hoặc nhiều người không cùng mục tiêu với nhau lại hiện diện bên nhau, hoặc khi họ cùng cạnh tranh nhau điều gì đó quý hiếm. Diễn đạt cách trịnh trọng là, những người có mâu thuẫn “cân phân thiện chí nhượng bộ các nhu cầu cá nhân của họ về quyền lực, thành tích, kết quả, chiến tích; với nhu cầu quan hệ của họ với tha nhân để đạt lòng tin, ảnh hưởng, gây dựng lẫn nhau và các lợi ích tinh thần khác,.” Mặc dầu mâu thuẫn thường mang nhiều nguy cơ và có tính chất hủy diệt, chúng cũng có thể được dùng rất hiệu quả cho mục đích làm sáng tỏ mục tiêu, hợp nhất một nhóm người, và có khi mang những bất đồng cố hữu ra thảo luận lại để tìm được giải pháp.
Cũng như cá tính giống nhau của con người, nhóm người hay đoàn thể cũng có những loại mâu thuẫn giống nhau và rất khó lay chuyển. Điều này cộng hưởng lại, càng khiến mâu thuẫn tệ hại hơn. Có người bùng nổ cơn giận kiểu người lớn như bĩu môi và giặm chân. Người khác thì la hét, cắt ngang, nhẩy xổm vào cuộc đối thoại, tấn công người đối thoại, hoặc giả vờ không quan tâm đến vấn đề đang được bàn cãi. Nhưng hữu ích nhất là những người có thiện chí giải quyết mâu thuẫn bằng cách sử dụng lời thoại êm dịu để làm nguôi cơn giận,và bằng cách đối đầu với vấn đề một cách cởi mở và thành thật.
Khi có mâu thuẫn, người cố vấn nên cố gắng phát hiện ra trọng tâm vấn đề thực tế liên quan (có thể trọng tâm này còn ẩn tàng, chưa được ai nêu ra). Xem xét cá tính của đối tượng và những người liên đới, nằm trong loại mâu thuẫn nào.
4. Thiếu Lòng Cam Kết Cộng Tác.
Nhiều người, ít nhất là ở Mỹ, sợ nói lời cam kết. Lòng trung thành với bạn bè, gia đình, hội thánh, nghiệp vụ kinh doanh, và quốc gia chỉ là dịch vụ của môi miệng (chỉ nói), và người ta sẽ xé bỏ mọi cam kết sau khi đạt được mục tiêu hoặc lợi ích cá nhân nào đó. Có lẽ bởi vì người ta thích chủ nghĩa khoái lạc ích kỷ hay là vì quá cẩn thận, quá sợ lời cam kết mà nhiều người khước từ việc cam kết với người khác, hoặc với đoàn thể khác. Hoặc không muốn cam kết, hoặc nhanh chóng nuốt lời hứa khi có thứ gì khác hấp dẫn hơn xuất hiện.
Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn tới căng thẳng cá nhân, nhưng một nguyên nhân chung chính là không giữ lời cam kết cho đến cùng. Người ta cố tránh nói lời cam kết nhưng sự thật là người ta cũng đang tự động cam kết với một thứ khác. Ta không muốn cam kết với người khác, với Đức Chúa Trời; hoặc khi chúng ta tự do bỏ lời cam kết của miệng chúng ta; có nghĩa rằng chúng ta tìm đến cam kết với sự đơn độc, với thất bại cá nhân, với những căng thẳng hoặc giận dữ.
Thiếu sự cam kết không luôn luôn vì lý do lười biếng hoặc vì các ước muốn ích kỷ khác. Người ta có thể quên đi những lời cam kết trước của họ, bận rộn với những thứ khác, hoặc hối tiếc về lời đã cam kết. Có khi lời cam kết bị tổn thương nghiêm trọng đó là trường hợp chúng ta tin cậy vào một người bạn hay một cộng tác viên mà cam kết rồi sau đó họ phản bội chúng ta. Một nhận xét từ thực tế cho rằng không lạ lùng nếu “thiếu sự tin cậy trong nhóm những người cùng làm việc với nhau thì ắt hẳn quan hệ của họ sẽ có sự khó khăn.”
5. Thất bại trong Đối Thoại.
Mấu chốt để gây dựng quan hệ cá nhân tốt đẹp là phải có đối thoại tốt đẹp. Khi đối thoại không hiệu quả hoặc có nguy cơ sụp đổ, thì quan hệ cá nhân cũng thường dẫn đến căng thẳng. Ngay cả khi mối quan hệ chỉ trong phạm vi hai người với nhau, cũng có nhiều tính chất căn bản ta cần biết để tránh thất bại. Ví dụ đơn giản nhất, một cái máy nhắn tin cố gắng “giao tiếp” để chuyển một thông điệp tới một máy nhận tin. Tiến trình này trục trặc, nếu như:
• Người gởi thông tin diễn đạt không rõ ràng (người gởi chưa suy nghĩ rốt ráo hoặc cách diễn đạt không rõ ràng).
• Người gởi e ngại, xấu hổ, dối trá, hoặc muốn gửi một thông tin nước đôi trong lời nói hoặc cử chỉ.
• Người gởi nói một đàng nhưng biểu hiện một nẻo cư xử khác (chẳng hạn như, người gởi nói “Tôi buồn,” nhưng lúc đó lại cười và đùa cợt). Đó cũng là ví dụ của kiểu thông tin “nước đôi”. Những kiểu thông tin này rất nguy hại cho việc gây dựng tương giao tốt đẹp.
• Người gởi lầm bầm, càu nhàu, la hét, hoặc bẻ cong thông tin khiến cho thông tin thiếu minh bạch, rõ ràng.
• Người nhận không thể nắm bắt được thông tin.
• Người nhận không chú tâm đón nhận thông tin; có lẽ bởi vì không thích, không tin, sợ bị thuyết phục, hoặc vì một lý do nào khác
• Người nhận thêm suy diễn của mình vào trong thông tin, hoặc bỏ đi những chi tiết mà họ không muốn nhận.
Ngoài những khó khăn trên, thái độ của người nhận cũng đáng lưu ý. Cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và lời nói, phản ứng được phóng ra trước khi thông tin gởi chấm dứt. Điều này kích ngược lại người gởi và khiến cho người gởi thay đổi thông tin, giọng điệu giữa chừng.
Trong các quan hệ sơ giao, các đối tác không biết nhau, sự giao tiếp sẽ phụ thuộc rất nhiều vào đối thoại và các biểu hiện công khai. Trong các quan hệ thân tình, các đối tác có thể hiểu cả nét máy môi, chau mày, âm sắc, lửng câu nói, tiếng ho khan của nhau. Những kiểu bày tỏ này gia tăng tốc độ thông tin, nhưng chúng cũng là tiềm năng tạo ra hiểu nhầm nhau. Bởi vì sự thân mật thường khiến người ta hiểu nhau qua những kinh nghiệm trong quá khứ thay vì nên tập trung vào chính thông tin hoặc vào người gởi thông tin trong hiện tại.
6. Những Chất Kích thích Xã hội.
Những biến cố hoặc những điều kiện trong xã hội có thể cản trở các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp. Căng thẳng dường như nổ ra nhiều trong chỗ thành thị đông người, hơn là ở những vùng ngoại ô, vắng vẻ, hoặc nông thôn. Phải co cụm lâu trong nhà hay các cao ốc vì khí hậu khắc nghiệt bên ngoài khiến cho người ta dễ nóng nẩy, cãi vả. Khi nền kinh tế trong xã hội gặp khó khăn, nhiều nhu cầu thiết yếu không thõa, đình công, thất nghiệp, chính trị thối nát, ngay cả có những bất đồng giữa hàng xóm, đồng nghiệp vì khác chính kiến, chia rẻ trong Nhà thờ, thậm chí có chiến tranh.
Trên phạm vi cá nhân, những tranh chấp hàng ngày, những khiêu khích, bất bình, đòi hỏi lẫn nhau có thể khiến chúng ta mệt mỏi, nổi giận, ghen tị. Khi không thoát ra được các điều thị phi đó, hoặc ra khỏi những đòi hỏi của một môi trường làm việc khó khăn, hoặc ra khỏi những kẻ quấy rầy (bao gồm gia đình), sự căng thẳng thường xuất hiện và khiến thương tổn dần dần quan hệ cá nhân.
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN THẤT BẠI
Người ta phản ứng khác nhau đối với sự căng thẳng. Có người kháng cự lại, có người tránh né, có người cảm thấy thất vọng trầm trọng, có người thì quá chán chường, nhưng cũng có người vượt thắng trên hoàn cảnh đó. Sự căng thẳng rất là đáng sợ, cho nên chúng ta thường có hành động nhằm bảo vệ chính chúng ta. Chẳng hạn như chúng ta che đậy những cảm xúc thật của mình và những tình trạng bất ổn của chúng ta. Có khi kiếm cách xách động người khác hay là đóng bộ dạng không thực sự là chúng ta. Tất cả những xảo thuật đều phải trả một cái giá và để lại hậu quả cho chính chúng ta về thể chất, về tâm lý, về xã hội, lẫn về thuộc linh.
Chúng ta chắc không lạ gì các dạng suy sụp thể chất do sự căng thẳng của cuộc sống và của quan hệ cá nhân thất bại gây ra. Sự mõi mệt, cơ bắp rã rời, nhức đầu, đau bụng hay bao tử xáo trộn, loét, và nhiều dạng phản ứng sinh học khác nhau, đặc biệt là đối với người che đậy hay chối cảm xúc căng thẳng của mình. Một nhà quan sát nhận thức được điều này đã viết, khi chúng ta cố gắng che giấu những cảm xúc hoặc những căng thẳng của chúng ta, bao tử của chúng ta sẽ gánh hết mọi tác hại.
Trên phương diện tâm lý, nếu quan hệ cá nhân thất bại thì cảm xúc của đương sự cũng bị rối loạn dẫn tới những biểu hiện khó lường, nhẹ từ thái độ bất họp tác cho đến mức kinh khủng là muốn giết người. Khi gặp căng thẳng, người ta thường bị trầm cảm, mang mặc cảm phạm lỗi, thất chí, thiếu tự tin, và lo lắng. Cũng có khi đương sự nổi giận, cay đắng, hoài nghi, và lộ các hành động thị oai, khống chế người khác, bạo lực, hoặc trả thù. Khi họ cảm thấy bị đe dọa hoặc thất bại trong những cố gắng kết thân với người khác, họ thường có hành động thiếu suy nghĩ. Miệng cứ nói, tay cứ làm xong thì lại thấy hối.
Điều này dẫn chúng ta đến các ảnh hưởng Xã hội của sự căng thẳng cá nhân, bao gồm lời nói đấu đá, bạo lực, cắt đứt quan hệ. Chẳng hạn như, hai đối tác kinh doanh kết thúc quan hệ làm ăn cách đột ngột, một gia đình đột ngột bỏ Nhà thờ, người làm công bỏ việc, vợ chồng quyết định chia tay nhau, hoặc hai quốc gia tuyên chiến với nhau về một nguyên nhân vô nghĩa lý. Các hành động như thế cứ leo thang mà không giải quyết được điều gì. Nó chỉ thõa mãn cơn khát vọng quyền lực hủy phá và máu trả thù, những phản ứng rất nặng tính hủy diệt đó rồi cũng kéo đương sự, sau đó, tới tận cùng của sự cô đơn, đau khổ và hối tiếc.
Không một điều nào nói trên có thể giúp người ta trong lãnh vực thuộc linh. Trong vườn Ê-đen, ma-quỷ đã thành công trong việc kích động sự căng thẳng giữa Đấng Sáng tạo và các loài thọ tạo của Ngài. Khi họ ăn trái cấm, A-đam và Ê-va đã bị phân cách khỏi Đức Chúa Trời, và liền đó, họ đổ lỗi nhau và khiển trách nhau. Trong nghĩa rộng hơn, tất cả mọi căng thẳng cá nhân đều là kết quả và sự phản ánh của tội lỗi. Khi người ta bị phân cách khỏi Đức Chúa Trời hoặc bị phân cách khỏi nhau, người ta không thể trưởng thành về cảm xúc và về thuộc linh được.
Khi mâu thuẫn tồn tại bởi vì thái độ thiếu trưởng thành của các bên đối tác tự cho mình là trung tâm điểm, thì loại mâu thuẫn này rất vô nghĩa nhưng tác hại vô cùng, mặc dầu kinh nghiệm này cũng có thể kích thích sự trưởng thành.
TƯ VẤN CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Tiên tri Ê-sai đã có lần vẽ cảnh khung trời tương lai khi lang sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư-tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi.(Es 11:6) Cho tới lúc đó, hết thảy chúng ta sẽ phải sống với ít nhất vài sự căng thẳng cá nhân. Mâu thuẫn xã hội chắc chắn xảy ra khi thế giới đầy dẫy con người là những người thiếu thốn, khi các nguồn cung cấp bị giới hạn, và nhu cầu phụ thuộc lẫn nhau. Theo một nhà nghiên cứu của trường đại học Michigan, chúng ta sẽ đối diện với thách thức điều khiển sự leo thang giữa các dân tộc và giữa con người với nhau, vì vậy bây giờ chúng ta nên học cách giải quyết mâu thuẫn cá nhân mang tính hủy phá và những cuộc chiến giữa các quốc gia.
Để sống hài hòa với tha nhân, chúng ta cần phát triển những cá tính như là tự xét, tử tế, quan tâm, nhạy bén, và kiên nhẫn. Muốn gây dựng quan hệ cá nhân tốt đẹp cần phải rèn luyện kỹ năng, bao gồm những khả năng biết lắng nghe, giao tiếp, và hiểu biết. Những kỹ năng hiệu quả này không xuất hiện giống như trò ảo thuật. Chúng ta cần học tập chúng, với sự giúp đỡ của một người cố vấn nhạy bén, nếu có thể được. Sự giúp đỡ này bao gồm vài lãnh vực sau:
1.Bắt đầu với những Cơ bản.
Tình yêu thương hiếm khi được nhắc đến trong văn chương tư vấn, nhưng điều này tràn ngập văn chương Tân Ước. Chính bởi tình yêu thương mà Đức Chúa Trời đã sai Con Một của Ngài vào trong thế gian để chết thế cho loài người tội lỗi. Chính tình yêu thương là mỹ đức cao quý nhất, vĩ đại nhất của Ngài; bản tánh ấy là đặc điểm sinh tử đối với Cơ Đốc Nhân và là dấu hiệu phân biệt một người có phải là cơ đốc nhân hay không.( ICo 13:13; IGi 4:8; Gi 13:35)
Một mục tiêu trong sự tư vấn là giúp đỡ người ta trở nên biết yêu thương nhau hơn. Trong bất kỳ tình huống tư vấn nào, chúng ta bắt đầu bằng việc lắng nghe và cố gắng hiểu được vấn đề; người cố vấn cũng phải thể hiện tình yêu thương trong thái độ lắng nghe, ánh mắt dịu dàng và thỉnh thoảng nói về tình yêu thương với người được tư vấn. Cố gắng “quyết định” nói về tình yêu thương nếu như người đó là một tín hữu. Vạch cho thấy việc giao phó hoàn toàn cho Đấng Christ sẽ thay đổi được thái độ của chúng ta; và do đó phục hồi được các mối quan hệ của chúng ta với những người khác. Khi một cá nhân đầu phục Đấng Christ thì không có nghĩa rằng mọi vấn đề giao tiếp của người ấy đều tự nhiên biến mất. Sự thu thập kỹ năng cũng quan trọng, nhưng những kỹ năng cá nhân hiệu quả hơn khi người sử dụng kỹ năng mang đặc tính yêu thương, kiên nhẫn, tự chủ, và đầy những trái Thánh Linh.
Người cố vấn Cơ Đốc nhạy bén phải nhận ra được rằng sự căng thẳng trong quan hệ cá nhân trên cơ bản liên quan tới hoạt động của Sa-tan. Những kỹ thuật cố vấn không trấn áp nổi quyền lực của ma quỷ cho nên người cố vấn tự mình phải hằng nhờ cậy Đức Thánh Linh hướng dẫn và trang bị bằng Lời Chúa hàng ngày. Kiên trì cầu nguyện không thôi “cho hết thảy các thánh đồ,” bao gồm những người được mình tư vấn.((Eph 6:10-18)
2.Thay đổi mỗi Cá thể.
Vì những mâu thuẫn cá nhân thường do bản tánh, thái độ sỉ nhục, cách cư xử khắc nghiệt của các bên đối tác, cho nên giúp đỡ để mỗi cá nhân thay đổi là việc làm có giá trị. Những người được tư vấn thường không nhận thức được chân bản tánh và cách cư xử của họ; điều này tạo ra hoặc leo thang lên sự căng thẳng cá nhân. Thường thì người được tư vấn nhanh chóng nhận ra lầm lỗi của những người khác (Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi), nhưng lại chậm chạp hơn để thấy những sự yếu đuối của riêng mình (mà chẳng thấy cây đà trong mắt mình?) (Mathio7:3-5). Vì vậy, tế nhị chỉ ra những lỗi lầm cá nhân này và những phương cách cư xử tự diệt “cái tôi” sẽ rất hữu ích. Cố gắng đưa ra những ví dụ cụ thể để hỗ trợ, minh họa những nhận xét của bạn và mời người được tư vấn đáp ứng. Thỉnh thoảng bạn nên khích lệ người được tư vấn của bạn nói về chỗ mạnh và chỗ yếu đuối của cá nhân họ với một người hay hai người khác (chia sẻ), nói với chính họ (tự kiểm tra bản thân), và đặc biệt là thành thật với Đức Chúa Trời (xưng tội).
Đôi khi bạn thay đổi không khí bằng cách khuyến khích người được tư vấn chia sẻ nan đề của họ cho người khác nhưng cũng nên tìm đến những người nào biết trân trọng, chịu trách nhiệm các thông tin cá nhân và không tạo những vụ xìcănđan vô nghĩa cho đương sự. Bạn cũng không khuyến khích một cách bừa bãi cho những người được tư vấn tiết lộ các chi tiết riêng tư của cuộc đời họ cho nhiều người khác. Khi người được tư vấn chia sẻ với một hoặc hai người khác, bao gồm người cố vấn, những căng thẳng bên trong có thể giải tỏa, và nhiều người được hiểu chính mình nhiều hơn. Sự hiểu biết này thường hướng tới những thay đổi trong cách cư xử mà chúng lần lượt góp phần trong các mối quan hệ ngọt ngào hơn với những người khác. Khi có sự tự hiểu biết tốt hơn, có sự tự do lớn hơn để tìm hiểu các nhu cầu của người khác sẽ thực hiện việc xây dựng các mối quan hệ cá nhân tốt hơn.
Người cố vấn Cơ Đốc biết rằng những thay đổi cơ bản nhất và tồn đọng lâu nhất là khi con người đến cùng Đức Chúa Trời. Người được tư vấn cũng như người tư vấn, tất cả đều cần có quan hệ thích hợp và trưởng thành với Đức Chúa Jêsus Christ để giúp phá vỡ các bức tường ngăn cách giữa con người, có thể giúp họ từ bỏ được sự cay đắng và tránh sự thiếu nhạy bén làm chia rẻ họ, và có thể góp phần vào sự bình an và hợp nhất bên trong.(Eph 2:14-16;4:29;5:1)
3.Các Mối quan hệ Tốt đẹp Gương mẫu.
Một vài người được tư vấn hiếm khi kinh nghiệm được sự kính trọng lẫn nhau hoặc kinh nghiệm được các mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Vì vậy, sự tương tác giữa người cố vấn và người được tư vấn có thể là một gương mẫu của sự chăm sóc, kính trọng, và sự tương tác tích cực với nhau. Gương mẫu này có ý nghĩa rất lớn – một số người cố vấn tin rằng mối quan hệ chăm sóc là nền tảng đối với hiệu quả tư vấn.
Các mối quan hệ gương mẫu này có khi bị dẫn tới sự đối đầu và sự đấu khẩu khi đụng tới các chủ đề đau thương, tế nhị, cho nên người cố vấn luôn luôn tìm cách hướng, kéo đối tượng lại bằng những lời khích lệ thích hợp. Điều này là một khởi đầu trong việc xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, nhưng khi người ta được một người cố vấn khích lệ, họ thường có thể giải quyết nan đề của họ tốt hơn, và trải qua thời gian, họ có thể kinh nghiệm được sự đáp ứng tích cực khi họ thực hành việc khích lệ người khác
4.Dạy dỗ Giải pháp Mâu thuẫn.
Theo như David Augsburger nói, mâu thuẫn là tự nhiên, bình thường, vô thưởng vô phạt, và có khi vui vui. “Chúng ta không cần quan tâm nhiều đến mâu thuẫn, nhưng mà là cách thức mâu thuẫn được giải quyết thế nào. . . . Chúng ta thể hiện nó ra sao, chúng ta làm sao để hài hòa những dị biệt của chúng ta – quyết định cả cuộc đời chúng ta liên quan tới đó.” Agusburger nói tiếp – người ta có thể được giúp đỡ để thể hiện các mâu thuẫn như là những sự khác nhau thực hữu. Những mâu thuẫn này có thể được giải quyết là khi người trong cuộc sẵn sàng đối xử với nhau bằng sự tôn trọng nhau và sẵn sàng đối diện nhau với những phương cách tràn tình yêu thương thành thật thổ lộ ra ngoài.
Yêu cầu người được tư vấn miêu tả những mối bất đồng cụ thể gần đây họ có. Các vấn đề là gì, ai liên quan tới chúng, và mâu thuẫn được giải quyết ra sao? Những sự khác nhau giữa các mâu thuẫn được giải quyết cách hiệu quả là gì và những sự khác nhau giữa các mâu thuẫn không được giải quyết hiệu quả là gì? Bạn có thể thấy được những loại mâu thuẫn đang phát triển tự nhiên không? Với những câu trả lời cho các câu hỏi như thế này, bạn và người được tư vấn của bạn có thể cùng giải quyết, phân loại các mục tiêu, hài hòa những điểm dị biệt, và tìm các phương cách để giải quyết các mâu thuẫn.
a.Phân loại các Mục tiêu.
Đó là trường họp người ta ở trong mâu thuẫn, nhưng họ có cùng mục tiêu giống nhau mặc dầu họ có những điểm khác nhau. Chẳng hạn như, các giảng viên của một phân khoa đại học cùng muốn có chất lượng trong giáo dục, nhưng khi người này mâu thuẫn với người về giáo án, sách giáo khoa. Một người chồng và người vợ có thể cả hai có thể muốn có một cuộc hôn nhân tốt đẹp, nhưng khi họ ở trong sự mâu thuẫn, đương đầu với nhiều chi tiết trong cách sống của họ, quản lý tiền bạc, hoặc nuôi dạy con cái. Cả hai người có thể muốn thấy mối mâu thuẫn của họ được giải quyết trong một phương cách mà hai người đều có thể đồng ý, cả hai đều có lợi, và cả hai đều có hướng muốn làm tăng mối quan hệ giữa họ trở nên tốt đẹp; vì vậy, sự giao tiếp trong tương lai của họ sẽ được cải thiện.
Trong khi làm việc với những loại người này, cố gắng làm giảm sự lý luận hay sự thương lượng đòi hỏi thế thượng phong. Trên lý thuyết, sự thương lượng đòi địa vị xuất hiện khi mỗi bên có một địa vị trí nào đó, rồi trả giá để nâng cấp cho tới một giải pháp mà hai bên có thể đồng ý. Trong thực tế, mỗi bên đều cứng cõi theo yêu cầu của mình, bám chặt nó. Như là một kết quả nghiên cứu, tánh khí thường lộ ra, thỏa hiệp hay nhượng bộ bị coi như yếu thế, mất mặt; cho nên thường ít hoặc chậm. Mà nếu có kết quả cũng sẽ tồn động cơn giận dai dẳng trong họ. Để tránh điều này, yêu cầu những người đang tranh cãi xem xét lại điều mà mỗi người trong họ thật sự muốn và nhấn mạnh mục tiêu giống nhau của họ. Khi các mục tiêu tương tự nhau, giải pháp giải quyết mâu thuẫn sẽ dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, hai bên thường có các mục tiêu khác nhau. Nếu người vợ mong muốn sự bất hòa trong hôn nhân được hàn gắn, nhưng người chồng lại muốn ly hôn, vì người chồng muốn mình có thể cưới người bạn gái mới; lúc này, giải pháp giải quyết mâu thuẫn trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Việc nói về các chủ đề như là tài chánh, lối sống, hoặc các quan điểm trái ngược nhau về tôn giáo – tất cả đều không giúp ích gì được cho việc đem lại sự hòa bình, bởi vì các mục tiêu cuối cùng của người chồng và người vợ hoàn toàn khác nhau.
Trong việc tư vấn của bạn, hãy nhớ rằng hầu hết các mâu thuẫn liên quan tới các chủ đề và các mối quan hệ của họ. Chẳng hạn như, một người cha và đứa con gái ở tuổi thiếu niên có thể bàn cãi về các phẩm chất đáng khen hay công lao của người bạn trai mới của đứa con gái. Đây là chủ đề đang được tranh luận, nhưng bên dưới chủ đề, có thể có một câu hỏi về mối quan hệ có sức ép hơn về ai là người có quyền hơn trong gia đình: người cha hay đứa con gái. Các mục tiêu của các đối tác này có thể nắm bắt được ngay trong các thuật ngữ của họ khi họ bàn bạc các chủ đề (để đạt đến sự kết luận nào đó về người bạn trai) hoặc trong các thuật ngữ của các mối quan hệ (để khẳng định và duy trì sự điều khiển người khác). Những điểm dị biệt này sẽ không luôn luôn được nhận ra hoặc được nói đến; vì vậy, người cố vấn phải quan sát thái độ của họ với nổ lực lớn để có thể quyết định xem các mục tiêu được nêu tên ra là thực hữu hay là chính các mục tiêu đang ẩn tàng và gây sức ép buộc nhất mới là thực hữu.
Khi các mục tiêu được nhận dạng và được phân loại, chúng có thể đạt đến đích, được hiểu, và cho phép cách dễ dàng hơn. Trong việc tư vấn, đầu tiên hai người có thể được nhắc nhở về các mục tiêu mà họ cần chia sẻ với nhau. Sau đó, sẽ thảo luận về những điểm dị biệt.
b.Thỏa hiệp các điểm dị biệt.
Trong khi nói chuyện với các môn-đồ của Ngài, Chúa Jêsus đã thảo ra những nét chính về một tiến trình để phục hồi các mối quan hệ giữa Cơ Đốc nhân với nhau (Ngài đã nói về sự tha tội trong Mat 18:15-22), họ là những người lạc lõng, không tin tưởng nhau. Nguyên tắc có thể không dành cho người ngoài Chúa, nhưng đặc biệt áp dụng cho người theo Đấng Christ. Trong việc tư vấn các tín hữu, người tư vấn Cơ Đốc nên khuyến khích những người được tư vấn theo trình tự hướng dẫn sau đây:
Bước một: Nên ở thế chủ động và đi đến người làm sai hoặc người làm bạn buồn. Tân Ước ám chỉ đến điều này – hãy nên giải quyết vấn đề cách cá nhân và riêng tư (“hãy trách người khi chỉ có ngươi với một mình người”). Trong khi giải quyết điều này, chúng ta nên đi vào vấn đề với tinh thần yêu thương, nhân từ, khiêm nhường; với thái độ sẵn sàng biết lắng nghe; một quyết định không tranh cải; và với một mong ước tha thứ.
Bước hai: Mời vài người làm chứng. Nếu như người đó không chịu lắng nghe hoặc thay đổi, nên mời một hay hai người làm chứng (“hãy mời một hai người đi với ngươi”). Những người này biết lắng nghe, đánh giá, quyết định sự việc, và có lẽ cố gắng phân xử và đưa ra một giải pháp cho sự tranh cãi này.
Bước ba: Nói với Hội Thánh (“hãy cáo cùng Hội Thánh”). Nếu như người đó vẫn khăng khăng không chịu lắng nghe, vẫn từ chối thay đổi, từ chối hợp tác giải quyết vấn đề; thì có thể rút phép thông công (“thì hãy coi người như kẻ ngoại và kẻ thâu thuế vậy”).
Có phải tất cả điều này như là cách giải quyết lỗi thời chăng? Các Hội Thánh ngày nay cũng vậy, có vẻ như muốn bỏ qua tội lỗi cho các thành viên của họ hơn, và nhiều Cơ Đốc nhân chỉ phiếm luận về sự đấu tranh nội bộ giữa các Hội Thánh. Có lẽ ngày nay đôi người thất vọng về sự rút phép thông công. Trong một trường hợp xử gần đây, một thành viên trong Hội Thánh đã kiện một giáo đoàn khi họ ngăm dọa rút phép thông công. Việc tố tụng này đã khiến các nhà lãnh đạo Hội Thánh phải vạch trần lối sống của người nữ thành viên đó và xâm phạm sự riêng tư của cô bằng việc công khai hóa về những phẩm hạnh suy đồi của cô.
Không dễ dàng gì để làm theo những lời chỉ dẫn của Kinh Thánh đối với cuộc sống riêng tư. Để tha thứ bảy mươi lần bảy, đưa má kia cho người ta vả luôn, lấy đều thiện trả ác, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ chúng ta – những điều này và các lời chỉ dẫn khác trong Bảng 16-1 (Table 16-1) – tất cả đều khó khăn để làm theo hay thực hiện trong thời hiện đại của chúng ta khi chủ nghĩa cá nhân được đề cao.53 Vì thế, người tín hữu nên tìm cách thực hành lời chỉ dẫn trong Thánh Kinh, ngay cả khi những lời chỉ dẫn này rất khó thực hiện. Người được tư vấn và người tư vấn thường phải cùng nhau cân nhắc điều mà Chúa Jêsus có thể làm ngày hôm nay nếu như Ngài đang ở trong vai trò tư vấn.
Vài lời chỉ dẫn của Kinh Thánh
đối với các mối quan hệ cá nhân
NÊN:
Thông cảm, nhơn từ, và yêu thương
(Ga 5:22; Eph 4:32; Co 3:12,14; IPhi 3:8; 4:8; IGi 3:11)
Mềm mại, hòa nhã, và lịch thiệp
(Ga 5:23; Eph 4:2; Co 3:12; 4:6; ITi 3:3; Tit 1:8; 3:2; IPhi 3:4)
Khiêm nhường, dịu dàng, tôn trọng người khác
(Mat 5:3-5; Gi 13:34; Eph 4:2; Co 3:12; IPhi 3:8; 5:5)
Rộng rãi và sẵn sàng ban cho
(Mat 5:42; 10:42; 25:35-36,42-43; Mac 12:41-44; Ro 12:8,13; IPhi 4:9; IGi 3:17)
Hiếu khách, không cằn nhằn
(Ro 12:13; He 13:2; IPhi 4:9; ITi 3:2)
Tiết độ và cư xử có chừng mực
(Ga 5:23; ITi 3:2; Tit 1:8; 2:1,5-6; IPhi 5:8; IIPhi 1:6)
Sẵn sàng thể hiện sự thương xót, ngay cả khi người khác không xứng đáng
(Mat 5:7; 18:33; Lu 6:36; Ro 12:8; Gia 2:13; 3:17)
Là người giảng hòa, hãy tìm cách sống hòa thuận với mọi người
(Mat 5:4; Ro 12:18; Ga 5:22; ITe 5:13; IPhi 3:8; IIPhi 3:14; Gia 3:17)
Nhẫn naị, ngay khi có lời khiêu khích
(ICo 13:4-5,7; Ga 5:22; Eph 4:2; Co 3:12; ITe 5:14; IITi 2:24)
Thỏa lòng, không khao khát hay cầu xin những đều quá sức chúng ta, ngoài những sự mình có
(IICo 12:10; Phi 4:11; ITi 6:6-8; He 13:5)
Mạnh mẽ, kiên quyết, không lay chuyển đức tin
(Mat 14:29-31; ICo 15:58; Gia 1:6-8)
Nương tựa lẫn nhau
(Eph 5:21; IPhi 2:13,18; 3:1; 5:5)
Tha thứ cho nhau nhiều lần
(Ga 5:22; Eph 4:32; Co 3:12,14; IPhi 3:8; 4:8; IGi 3:11)
Liên tục khích lệ và có hướng gầy dựng nhiều người khác
(Eph 4:29; 6:22; ITe 4:18; 5:11,14; He 3:13; 10:25)
Thành thật, nói sự thật trong tình yêu thương
(IITi 2:15; IPhi 2:15; 3:15-16; Eph 4:15; IICo 6:7)
Cầu nguyện, cầu nguyện cho cả những người gây ra các vấn đề cho chúng ta
(Mat 5:44; Lu 6:28)
KHÔNG NÊN:
Kiêu ngạo hay lố bịch, trịch thượng, xách mé
(Ro 12:16; ICo 13:4; IITi 3:1-2; Giu 1:16)
Giận dữ, hay gắt gỏng, dễ gây sự
(Mat 5:22; Ga 5:20,23; Co 3:8; ITi 3:2; Tit 1:7; Gia 1:19-20)
Ích kỷ, khăng khăng theo cách riêng của mình, tự cao tự đại, coi mình là trung tâm
(Gi 3:14,16; Ro 12:10; 15:1-3; ICo 10:33; Phi 2:3; IIPhi 2:3; Giu 1:12)
Xúc phạm hay tấn công người khác
(ICo 10:32; IICo 6:3)
Chửi thề, đặt tên tục cho người khác, hoặc xử dụng ngôn ngữ kém văn hóa
(Mat 5:22; 12:36; Co 3:8; Gia 5:12)
Đoán xét, bới lỗi lầm của người khác
(Mat 7:1-5; Lu 6:37; Phi 4:8; Giu 1:16)
Ăn miếng trả miếng, lấy ác trả ác
(Ro 12:17-20; ITe 5:15; IPhi 3:9)
Nói xấu, nói hành
(IICo 12:20; ITi 6:20; IITi 2:16,23; Tit 3:9)
Than phiền hoặc lằm bằm
(Gi 6:43; ICo 10:10; IPhi 4:9; Gia 5:9; Giu 1:16)
Thích tranh cãi, hay gây gổ, hung hăng, hay đòi hỏi
(IITi 2:24; Tit 3:2; ITi 3:3)
Vu khống, dựng chuyện, nói chứng dối cho người
(IICo 12:20; Eph 4:31; Co 3:8; IITi 3:3; Tit 3:2; IIPhi 3:3; Giu 1:18)
c.Giải quyết các mâu thuẫn.
Khi mọi người, các nhóm, hoặc các quốc gia ở trong tình trạng mâu thuẫn, họ có bốn sự lựa chọn về sự chỉ dẫn mà họ có thể có được. Họ có thể tìm cách tránh đi mâu thuẫn, duy trì mâu thuẫn ở mức độ hiện tại, hoặc để mâu thuẫn leo thang, hoặc làm giảm mâu thuẫn. Chúng ta biết, có người không muốn làm giảm mâu thuẫn, nhưng có khi lại quyết định đi vào những sự hướng dẫn khác. Chẳng hạn, một người phối ngẫu muốn tránh đối diện với mâu thuẫn, và hy vọng rằng mình không có mâu thuẫn hay mâu thuẫn đó có thể mất đi; nếu như mâu thuẫn bị quên đi trong một lúc. Người phối ngẫu kia lại có thể muốn mâu thuẫn leo thang, có lẽ trong một nổ lực nào đó để nắm quyền.
Giải pháp để giải quyết mâu thuẫn thường liên quan đến người tư vấn trong việc thương lượng và suy ngẫm. Sẽ không khôn ngoan nếu bạn dính vào mâu thuẫn nào đó của người khác, ngay cả khi bạn được mời để làm điều đó. Người can thiệp bị áp lực sẽ không biết đứng ở phía nào, bị yêu cầu có những quyết định được phân tích nhanh chóng, và sẽ phải chịu trách nhiệm đối với việc giữ cho sự giao tiếp luôn luôn cởi mở. Nếu như bạn được lựa chọn như là một người tư vấn, bạn nên cố gắng:
• Thể hiện sự tôn trọng đối với cả hai bên.
• Hiểu mọi vị trí của cả hai bên mà không có sự thiên vị bên nào.
• Giúp cả hai bên khẳng định lại chính mình, và khơi cho họ niềm hy vọng nếu như bạn cảm thấy có lý do để làm việc này.
• Khích lệ sự giao tiếp cởi mở và biết lắng nghe nhau.
• Tập trung vào những thứ có thể thay đổi được.
• Cố gắng giữ mâu thuẫn đừng leo thang (trừ khi điều này có thể làm gãy đổ sự giao tiếp).
• Tóm lượt tình huống và những vị trí thường xuyên.
• Giúp người được tư vấn tìm được sự giúp đỡ phụ thêm, nếu như sự suy ngẫm của bạn có vẻ không có hiệu quả.
Theo như một nhóm thương lượng, giải pháp giải quyết mâu thuẫn hầu như là thành công nếu như phương pháp bốn bước được áp dụng.
Bước một: Phân những người liên quan ra khỏi vấn đề đó. Điều này có nghĩa là đối xử với nhau bằng sự tôn trọng, tránh tất những lời nói xúc phạm nhau, gọi tên tục, hoặc những sự xét đoán về cá tính, và đưa ra sự chú ý thay vì đem lại các chủ đề. Mỗi bên nên cố gắng hiểu nhau, qua những quan niệm, những nỗi sợ hãi, những sự thiếu bảo đảm, cùng những ao ước của hai bên. Nên suy nghĩ về chính mình như là những thành viên tham dự vào, liên quan đến.
Bước hai: Tập trung vào các chủ đề, không phải là các vị trí hay địa vị của bên nào. Khi một cô gái mười chín tuổi, gần đây đã tuyên bố với cha cô rằng cô đang dự tính mua một chiếc xe mô-tô, ông bố lập tức không đồng ý với cô. Ở đây có hai vị trí (hay hai người) đang mâu thuẫn – xem xét khả năng có mâu thuẫn trong gia đình: cô nói rằng cô có thể có một chiếc xe mô-tô; ông bố lại nói rằng không được. Tuy nhiên, điều này bộc lộ sự phản ảnh nào đó – chủ đề thực tế – ông bố ao ước cho con gái của mình có được phương tiện đi lại an toàn, tin cậy, và không đắt tiền. Khi chủ đề chung này được đem ra nhận dạng, và khi ông bố cùng cô con gái mỗi người đều quyết định đạt đến với tinh thần cởi mở, họ sẽ có những sự lựa chọn khác nhau và tiến đến một sự giàn xếp (một chiếc xe hơi nhỏ mà ông bố có thể giúp tài chánh) mà không có “chiến tranh” trong nhà. Mâu thuẫn đã được giải quyết, bởi vì người cha và cô con gái đã tập trung vào chủ đề thực tế – phương tiện đi lại – họ tránh việc bảo vệ các vị trí cứng nhắc.
Bước ba: Suy nghĩ về các sự lựa chọn khác nhau có thể giải được quyết vấn đề. Khi bắt đầu, không nên cố gắng đánh giá các sự lựa chọn hay tìm cách đi đến một giải pháp đơn độc. Mỗi bên nên có những gợi ý trong một lãnh vực động não nào đó. Có thể có những thay đổi mới mẻ được đề bạt sau một số giải pháp sáng tạo, và mỗi lựa chọn có thể được đánh giá.
Bước bốn: Nhấn mạnh trên tiêu chuẩn khách quan. Mâu thuẫn dường như ít xuất hiện, nếu như cả hai bên đồng ý sớm hơn về một phương cách khách quan để đạt đến một giải pháp. Nếu như cả hai bên đồng ý hành động theo đúng kết quả của việc tung hứng (để đoán bên nào đúng), việc phân xử của quan tòa, hoặc đánh giá phẩm chất của sự việc; kết quả cuối cùng sẽ không thể làm thỏa mãn công bằng cho cả hai bên, dầu mỗi người phải đồng ý trên giải pháp đó; bởi vì giải pháp này đã được quyết định bởi các phương pháp khách quan, công bằng, và được đôi bên chấp thuận.
Thỉnh thoảng sẽ cần thiết để chia các chủ đề lớn thành nhiều phần nhỏ hơn, để có thể giải quyết chúng cùng một lúc. Người tư vấn sẽ cố gắng hiểu cả đôi bên. Mặc dầu người tư vấn Cơ Đốc cố gắng ở thế khách quan, nhưng họ cũng sẽ bị thách thức với các quyết định không thuộc trong Kinh Thánh – ngay cả nếu như cả đôi bên đồng ý giải pháp đó – giải pháp này không thích hợp với những sự dạy dỗ của Thánh Kinh.
5.Dạy dỗ các kỹ năng giao tiếp.
Chỉ trích (khi một người có những nhận xét không thiên vị, không tử tế, tìm lỗi về người khác) đã “gây ra sự mất hạnh phúc hơn, làm tan vỡ nhiều cuộc hôn nhân hơn, làm hỏng con cái nhiều hơn, làm nản chí nhiều người hơn, và làm ngừng bất cứ tiến trình nào hơn bất kỳ vũ khí giết người nào khác.” Đây là ý kiến của một cố vấn Cơ Đốc có kinh nghiệm, ông đã nói điều này sau bốn mươi năm trong nghề, gần đây ông đã kết luận rằng: Vấn đề số 1 của những người được tư vấn là thiếu khả năng để đối diện với sự chỉ trích. Ông còn nói thêm rằng: Sự chỉ trích – mới đầu thấy đó là sai; nhưng về sau, với sự cay đắng và châm biếm – người ta gọi sự chỉ trích là sự chú ý của người khác.
Những người tấn công người khác bằng lời nói (có lẽ bao gồm hết thảy chúng ta) đang sử dụng lời nói để làm tổn thương và gây ra sự căng thẳng. Đối với một số người, sự chỉ trích xảy ra bởi vì họ thảo luận các chủ đề một cách chân thật và với một thái độ tôn trọng. Hết thảy chúng ta cần được nhắc nhở định kỳ về các quy tắc để có được sự giao tiếp hay sự thông công hiệu quả hơn. Một vài quy tắc này được nêu ra trong Bảng 16-2. Khi những hướng dẫn này liên tục được thực thi, sự giao tiếp và các mối quan hệ cá nhân sẽ có xu hướng trở nên trôi chảy và tốt đẹp, những sự khác biệt sẽ được thảo luận cách chân thật, sự chỉ trích mang tính phá hoại sẽ được tránh khỏi, và các mâu thuẫn có thể được giải quyết thỏa đáng.
Tuy nhiên, thường người ta chẳng bao giờ chịu học các quy tắc giao tiếp, chẳng bao giờ thực hành chúng, thường quên chúng, và thường thảo luận một cách gay gắt, hoặc lựa chọn để ném chúng ra một bên. Bởi đó, người tư vấn có trách nhiệm để (a) học tập những quy tắc này và các quy tắc tương tự, (b) thực hành chúng trong cuộc sống cá nhân của mình, (c) làm gương và nói về chúng với những người được tư vấn của mình, (d) chia sẻ chúng với những người được tư vấn, và (e) thảo luận làm sao để chúng được áp dụng trong các mối quan hệ cá nhân của những người được tư vấn.
Những Hướng dẫn trong Cách Đối Thoại*
1. Đôi lúc hành động “nói” hay hơn lời nói. Hành động có khi hàm ý mạnh hơn ngôn ngữ. Tránh nói và làm điều mâu thuẫn nhau.
2. Xác định điều nào là quan trọng và nhấn mạnh nó; xác định điều nào là thứ yếu và lướt qua. Tránh việc bới lông tìm vết, moi móc lỗi lầm.
3. Giao tiếp trong các phương cách thể hiện sự tôn trọng đối với giá trị của người khác, xem họ như là một con người. Tránh kiểu ngôn từ ra lịnh như “Anh/Chị không được phép làm điều này. . . .”
4. Nên rõ ràng và cụ thể trong cách diễn đạt ý tưởng. Tránh sự mơ hồ.
5. Nên thực tế và hữu lý trong lập luận của bạn. Tránh sự phóng đại và những ngôn từ kết án như “Anh/Chị cứ mãi . . .”
6. Kiểm tra tất cả những giả định của bạn bằng cách hỏi lại nếu như chúng chính xác. Tránh kết luận trước khi biết rõ ràng.
7. Hãy biết rằng mỗi sự việc đều có thể được xem xét dưới nhiều quan điểm khác nhau. Tránh giả sử rằng người khác cũng thấy được như bạn thấy.
8. Hãy nhớ rằng các thành viên trong gia đình và bạn thân của bạn là những người hiểu biết về các cư xử của bạn rất rõ. Tránh xu hướng từ chối những sự quan sát của họ về bạn – đặc biệt là nếu như bạn không chắc.
9. Hãy nhớ rằng bất đồng ý kiến cũng rất có ích lợi cho quan hệ đối thoại. Nhưng nên tránh loại thảo luận mang tính đả phá, tấn công nhau.
10. Nên thành thật và cởi mở về những cảm giác và những quan điểm của bạn. Nói ra tất cả các vấn đề có ý nghĩa ngay cả khi nếu như bạn e ngại để làm hoặc điều này sẽ làm phiền đến người khác. Nói ra sự thật trong tình yêu thương. Tránh tình trạng im lặng bế tắc.
11. Đừng hạ nhục, chà đạp hoặc áp đảo, khống chế người đối thoại bằng các kiểu cách như chế giễu, cắt ngang, đặt tục danh, chuyển đổi đề tài (đánh trống lãng), trách cứ, giận dữ, nói hành, châm biếm, chỉ trích, bĩu môi, nói khích xúi phạm lỗi… Tránh cái trò tôn mình làm tâm điểm của sự đối thoại.
12. Nên quan tâm nhiều về cách đối thoại của bạn tạo ảnh hưởng trên người khác hơn là về điều mà bạn đang dự tính. Tránh cảm xúc cay đắng nếu như bạn bị hiểu lầm.
13. Hãy chấp nhận tất cả mọi loại cảm giác và cố gắng hiểu tại sao người khác lại cảm thấy và hành động như thế. Tránh nói “Anh/Chị không nên cảm giác như thế.”
14. Nên lịch thiệp, ý tứ, và nhã nhặn. Tránh lợi dụng những cảm giác của người khác.
15. Đặt câu hỏi và cẩn thận lắng nghe trả lời. Tránh giảng đạo hoặc giảng thuyết.
16. Tránh biện minh cho mình. Cũng tránh vướng lẩn quẩn vào lời biện minh của đối tượng nữa.
17. Dùng ngôn từ văn hóa, lịch sự, và nhẹ nhàng. Tránh rầy rà, la lối, hoặc rên rỉ.
18. Sử dụng óc hài hước và sự nghiêm túc một cách thông minh, đúng lúc. Tránh lối đùa cợt mang tính hủy phá.
* Được chấp thuận với sự cho phép của Sven Wahlroos, Giao tiếp Gia đình (Family Communication): Hướng dẫn đối với Sức khỏe đầy Cảm xúc (A Guide to Emotional Health) – (New York: Signet-New American Library,1976).
Hãy xem lại lời hướng dẫn đầu tiên này: Hãy nhớ rằng hành động nói lớn hơn lời nói; sự giao tiếp không lời thường mạnh hơn sự giao tiếp bằng lời. Tránh những thông tin được cường điệu – có cả thông tin bằng lời và không lời – chứa đựng một điều gì đó ngược lại. Yêu cầu người được tư vấn suy nghĩ về một tình huống mâu thuẫn cụ thể gần đây nhất. Có bất kỳ ai đưa ra một thông tin nào ngược lại chăng? Điều này có thể tránh đi như thế nào – và có thể được tránh trong tương lai ra sao? Như là một người tư vấn, hãy xem những ví dụ về thông tin được cường điệu và chỉ chúng ra cho người được tư vấn biết. Có lẽ đây như là một nhiệm vụ bên ngoài của việc tư vấn, người được tư vấn nên tránh đi những thông tin được cường điệu. Thảo luận vấn đề này trong lần tư vấn sau đó.
Khả năng giao tiếp cách hiệu quả và không có khuynh hướng xúc phạm tình cảm người khác là một kỹ năng. Giống như tất cả các kỹ năng, kỹ năng này cần phải được học tập chậm rãi; và điều này mang lại qua kết quả của việc thực hành. Hướng dẫn giao tiếp được tóm tắt trong Bảng 16-2, cho thấy sự giao tiếp thực sự liên quan nhiều hơn việc sử dụng những kỹ thuật. Giao tiếp thực sự là loại giao tiếp làm ngưng sự căng thẳng cá nhân và xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, chỉ xảy ra khi có một sự vui vẻ chân thật để tôn trọng, chấp nhận, hiểu biết, và quan tâm đến những người khác. Những kỹ năng giao tiếp – chúng rất quan trọng, nhưng giá trị chúng bị giới hạn khi không có ý chí tốt và lòng chân thật ở trong những người giao tiếp.
6.Thay đổi môi trường.
Môi trường cũng góp phần vào sự căng thẳng cá nhân, do vậy, người tư vấn và người được tư vấn nên cố gắng thay đổi những điều kiện sản sinh căng thẳng. Bất kỳ khi nào có thể, nên tìm giải pháp để giải quyết mâu thuẫn trong một nơi im lặng, thoải mái, với sự ồn ào được giảm thiểu. Một vài người thích thảo luận những mâu thuẫn của họ trong tiệm ăn khi đang uống cà-phê. Điều này có thể là một nơi không bị đe dọa hay sợ hãi, có thể là nơi để thư giãn, nhưng ngược lại sẽ không đem lại kết quả tốt nếu nơi này có nhạc ồn ào làm xao lãng khách, có nhiều người tò mò lắng nghe chuyện bí mật của người khác, hoặc nơi có nhiều sự trang trí lòe loẹt. Môi trường tạo nên điểm khác biệt, ngay cả khi chúng ta đang tư vấn.
Nơi có những mâu thuẫn được thảo luận, ở đó có thể ít quan trọng hơn môi trường mà người ta sống. Không dễ dàng để làm giảm tiếng ồn trong khu hàng xóm, loại ra khỏi sự nghèo nàn và bạo lực trên đường phố, cải thiện được điều kiện làm việc, hoặc những sự không thoải mái khác cho thể xác. Vì thế, người tư vấn phải có một sự quan tâm nhiều hơn đối với tiến trình tư vấn. Người tư vấn phải cam kết trong việc loại bỏ các điều kiện về môi trường và về xã hội, nhằm giảm đi những kích thích và tạo sự leo thang cho những căng thẳng cá nhân. Mỗi người tư vấn phải quyết định ngữ cảnh nào liên quan đến.
NGĂN CHẶN CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN NGHÈO NÀN
Cơ Đốc giáo là một tôn giáo của các mối quan hệ. Đấng lập nên Đạo là Đức Chúa Trời của Tình Yêu Thương, và tình yêu thương là đặc tính phân biệt rõ nhất của Đạo. Đây không phải là một ảnh hưởng ủy mị, nhợt nhạt, nhưng là tình yêu thương đầy năng quyền, có sự hy sinh, và là tình yêu thương được ban tặng – liên quan đến các đặc tính được miêu tả trong I Cô-rinh-tô 13, phản chiếu tình yêu thương của Đức Chúa Trời, là Đấng đã sai Con Một của Ngài chịu chết thay cho loài người tội lỗi. Hội Thánh sẽ thất bại trong nhiệm vụ Ngài giao phó, nếu như Hội Thánh không rao giảng và thực hành tình yêu thương này – Tình yêu thương là trung tâm điểm của thông điệp Cơ Đốc. Bất cứ khi nào, thông điệp yêu thương cũng cần phải được rao giảng và thực hành; có như vậy thì những căng thẳng cá nhân sẽ được giảm bớt.
Đức Chúa Trời cũng ban một vài hướng dẫn cụ thể để thể hiện tình yêu thương của Ngài.( IGi 4:16-19; Gi 13:35) Nhiều lời khuyên được Ngài dạy dỗ và ghi lại trong Kinh Thánh; hơn thế nữa, Ngài cho chúng ta phát hiện thêm các quy tắc khác trong Thánh Kinh đối với việc làm quen, kết thân hay giao tiếp với những người khác cách hiệu quả. Các mối quan hệ cá nhân có thể được cải thiện, và nhiều căng thẳng cá nhân có thể được ngăn chặn khi người ta trong mọi độ tuổi đều được dạy dỗ và được khích lệ thực hành liên tục.
• Những sự dạy dỗ Kinh Thánh về các mối quan hệ tốt đẹp (cho thấy ở Bảng 16-1).
• Bước đi hàng ngày với Đức Chúa Jêsus Christ – là một bước đi mang đặc tính của sự cầu nguyện, suy gẫm Kinh Thánh, xưng tội, sẵn sàng tìm kiếm và vâng phục sự hướng dẫn thánh.
• Sự xét mình sẽ giúp chúng ta hướng đến sự thay đổi hay sự chuyển tiếp với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời; mọi sự được đổi thay bao gồm– sự cay đắng, hoài nghi, và những thái độ hoặc những hành động cá nhân khác có thể kích thích sự bất hòa hay chia rẻ.
• Sự hiểu biết về mâu thuẫn cùng sự thực hành những phương cách làm giảm thiểu đi những mâu thuẫn.
• Những hướng dẫn cho sự giao tiếp hiệu quả được liệt kê trong Bảng 16-2.
• Giảm bớt, lãng tránh, hoặc sự loại bỏ căng thẳng đi những môi trường sản sinh mâu thuẫn.
Đây là một nhiệm vụ quan trọng, người ta nên nhấn mạnh nhiều lần, đặc biệt là ở trong Hội Thánh. Khi các nhà lãnh đạo Cơ Đốc, bao gồm những người tư vấn, liên quan đến việc ngăn chặn sự căng thẳng cá nhân, thì họ đang giúp đỡ người khác sống trong sự bình an và sự hòa thuận với nhau, tránh mâu thuẫn mang tính phá hoại, và kinh nghiệm được sự bình an đến từ Đức Chúa Trời.
(II Côrinhtô:11; Phi 4:5-6)
NHỮNG KẾT LUẬN VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Con người là vật thọ tạo phức tạp với những cá tính riêng lẻ và ý chí mạnh mẽ. Chúng ta rất đông đúc trên hành tinh này, dân số quá nhiều; hết thảy chúng ta đều mang những bản tính tội lỗi, chúng ta dùng những bản tính tội lỗi để đối xử lẫn nhau và ngay cả đối với Đức Chúa Trời. Nhiều người trong chúng ta muốn làm quen hay kết thân với những người khác, nhưng điều này không dễ dàng chút nào.
Có lẽ Sứ-đồ Phao-lô đã suy nghĩ về vấn đề này khi ông viết những lời hướng dẫn trực tiếp mà ông nhận được: “Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người.” (Ro 12:18) Những lời nói này cũng đã được viết ra vào cuối một vài đoạn của các sách ông viết, nhằm đem lại những giải pháp, những quy tắc thực tiễn đối với việc kết thân: hãy yêu thương nhau cách thành thật, đối xử và tôn trọng nhau trong tình yêu thương anh em, tôn trọng những người lớn hơn, chia sẻ cho nhau, tiếp đãi nhau, sống với nhau trong sự hòa thuận, sẵn sàng hợp tác với những người khác không cùng địa vị, không gian dối, chớ lấy ác trả ác, phải chăm tìm đều thiện trước mặt mọi người.
Chắc chắn rằng điều này rất thú vị – cách hướng dẫn để sống trong sự bình an được nói đến trước với hai đặc điểm: “Nếu có thể được” và “thì hãy hết sức mình.” Điểm đầu tiên ám chỉ – thỉnh thoảng không thể sống trong sự hòa thuận với nhau được. Ngay cả nếu có thể được, thì mỗi người đều phải có trách nhiệm đối với những thái độ và cách cư xử riêng của mình. Mỗi chúng ta cần phải hết sức mình sống trong sự bình an. Với sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh, những cố vấn Cơ Đốc hãy gắng sức xây dựng sự bình an như thế, và ngăn chặn những sự căng thẳng từ những đặc điểm quan hệ cá nhân đem lại.
Christian Counseling- Gary R]. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Bolton, Robert. People Skills: How to Assert Yourself, Listen to Others, and Resolve Conflicts. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall,1979.
Bramson, Robert M. Coping with Difficult People in Business and in Life. New York: Ballantine,1981.*
Diehm, William J. Criticizing. Minneapolis: Augsburg,1986.*
Egan, Gerard. You and Me: The Skills of Communicating and Relating to Others. Monterey, Calif.: Brooks/Cole,1977.
Fenton, Horace L., Jr. When Christians Clash: How to Prevent and Resolve the Pain of Conflict. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1987.*
Fisher, Roger, and William Ury. Getting to Yes: Negotiating without Giving In. New York: Penguin,1981.
riffin, Em. Making Friends and Making Them Count. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1987.*
Huggett, Joyce. Creative Conflict: How to Confront and Stay Friends. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1984.*
* Books marked with an asterisk (*) are especially suited for counselees to read.
INTERPERSONAL RELATIONS
Hùng vừa được thăng chức lên làm giám đốc kinh doanh cho chuỗi cửa hàng điện tử. Mỗi người trong công ty đều nhận ra tài năng của anh. Hầu hết các kết toán hàng tháng, anh bán nhiều hơn những người khác. Tiền hoa hồng và tiền thưởng của anh rất hậu hỉ.
Khách hàng của Hùng thán phục sự hiểu biết về những máy móc điện tử và sự hấp dẫn, sự vui vẻ của anh – điều này rất có ích cho anh và cho việc buôn bán. Khi anh xuất hiện ở cửa hàng, anh làm việc hăng say và vui vẻ, thích thú trong công việc. Khách hàng của anh rất thích và bị cuốn hút khi anh nói. Anh cung cấp những dịch vụ tốt cho khách hàng.
Nhưng Hùng đã không thân thiện gì với những đồng nghiệp trong công ty. Anh thiếu kiên nhẫn với những câu hỏi của họ, và không bỏ qua một lỗi lầm nào của họ. Khi anh là giám đốc kinh doanh, anh bắt buộc thuộc cấp phải đến đúng giờ, và anh không ngại trách mắng nặng lời nếu ai vi phạm; nhưng thỉnh thoảng chính anh cũng đến làm việc trễ. Anh bắt buộc xét tín dụng của khách hàng rất kỹ lưỡng, và đòi mọi người phải giữ những nguyên tắc của công ty một cách không nhân nhượng; thế nhưng anh đã không áp dụng triệt để những nguyên tắc này khi anh giải quyết với những khách hàng của riêng anh. Mỗi khi xếp trên đưa ra những chỉ dẫn cho anh, anh đều có phản ứng kháng cự lại. Anh giả vờ làm ngơ những lời chỉ dẫn của xếp và tự làm theo ý riêng của mình.
Cuối cùng anh bị đuổi việc. Không có lời bình phẩm nào về năng lực của Hùng. Rõ ràng anh bị mất việc chỉ vì đã không có thái độ cộng tác và hòa đồng với bạn đồng sự.
Hùng luôn luôn gặp khó khăn trong việc thân thiện với những người khác, đặc biệt là những người có quyền lực hay cấp trên của anh. Khi còn trẻ, cậu thường cãi vả và không hòa hợp với cha cậu; cậu thường có những mâu thuẫn với các thầy cô giáo của mình. Cậu luôn luôn muốn hơn em cậu và thể hiện thái độ kẻ cả đối với mọi người chung quanh.
Một người nào đó đã đề nghị Hùng nên tìm người khải đạo, nhưng anh đã quyết định tìm một công việc khác theo cách riêng của anh, và sau đó vấn đề lại trở nên như cũ. Một người bạn của anh cho rằng Hùng có thể e ngại gặp người tư vấn. Có phải chăng anh nghĩ rằng họ sẽ đối xử giống như cha anh không?
Hùng là một chàng thanh niên trẻ tuổi, có nhiều khả năng trong công việc kinh doanh, thông minh, có sự hiểu biết rộng về kinh doanh, và có tiềm năng lớn trong lãnh vực buôn bán lẻ. Thế nhưng anh không thể thân thiện với những người khác được, anh chỉ muốn kiểm soát mọi người và khiến họ làm theo cách riêng của anh. Không có một loại giúp đỡ nào thích ứng cho anh, anh không thích mình thay đổi.
Con người sinh ra là để sống trong xã hội. Vào lúc sáng tạo, Đức Chúa Trời đã phán rằng loài người ở một mình không tốt. Ngài đã đem cho A-đam một người giúp đỡ, Ngài đã dạy dỗ dòng giống loài người phải được gia tăng, và Ngài đã cho phép chúng ta gia thêm hàng tỉ người và bây giờ có rất nhiều người trên hành tinh Trái đất này.
Chỉ cần hai người trở lên đến với nhau là đủ thiết lập mối quan hệ cá nhân giữa họ. Có những mối quan hệ tốt, các thành viên hỗ trợ lẫn nhau và được ghi nhận là giữa họ có sự giao tiếp rõ ràng, cô đọng, và hiệu quả. Tuy nhiên, đáng buồn thay, đa số các mối quan hệ cá nhân thường có vấn dề. Thời đại ngày nay, đàn ông cũng như phụ nữ rất kiêu ngạo, họ có chủ nghĩa cá nhân của riêng họ, sự độc lập, và sự tự quyết định riêng của mình. Các đặc tính này khiến con người muốn sống ốc đảo, chai lì với cảm xúc của tha nhân, và dần dần dẫn con người vào trong chỗ lạnh cảm, cô đơn và khó thể hòa đồng với người chung quanh. Chúng ta sống trong thời đại thông tin, với quá nhiều thông tin, dữ liệu và những thiết bị kỹ thuật tân tiến giúp cho sự thông tin liên lạc và sự can thiệp vào đời sống cá nhân; thế nhưng chúng ta vẫn còn không hiểu nhau được, hoặc hiểu nhầm nhau, không dễ kết bạn với người khác, và cảm thấy cô độc. Cách đây nhiều năm, nhà tâm thần học Harry Stack Sullivan cho rằng – tất cả mọi sự trưởng thành và việc điều chỉnh hay sự chữa lành cá nhân, cũng như tất cả những sự hủy hoại và những sự thoái lui cá nhân đều xuất hiện qua các mối quan hệ với những người khác. Tất cả mọi tư vấn, và hầu hết mọi vấn đề nêu ra trong quyển sách này đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với các mối giao tiếp cá nhân. Cách thức làm sao để hòa đồng với tha nhân, bao gồm cách thức đối thoại, phải là mối quan tâm cốt lõi cho các tư vấn viên Cơ Đốc.
KINH THÁNH VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Kinh Thánh ghi lại bề dày lịch sử loài người về các vấn đề cá nhân và những sự gãy đổ trong quan hệ tiếp cận. A-đam và Ê-va, cặp vợ chồng đầu tiên đã đổ lỗi cho nhau về nguyên nhân phạm tội của họ trong vườn Ê-đen. Hai đứa con trai đầu tiên của họ cũng đã mâu thuẫn gay gắt với nhau đến nỗi đưa chúng tới tội sát nhân. Sau đó, khi dân số ngày càng gia tăng, trái đất đầy dẫy sự bạo động (Sángthếký 6:11,13) Một vài năm sau cơn nước lụt, các gia nhân của Áp-ram và Lót đã bắt đầu gây hấn nhau, từ tranh chấp trong gia đình sau nổ ra hàng loạt các cuộc chiến tranh triền miên khắp cả trong lịch sử Cựu Ước.
Sang thời Tân Ước, vấn đề cũng không khá hơn. Các môn-đồ của Chúa Jêsus đã tranh cãi nhau dành phần tôn cao hơn hết trong nước Thiên đàng (Lu 22:24) Trong Hội Thánh đầu tiên, A-na-nia và Sa-phi-ra đã nói dối với các tín hữu khác; người Do-Thái và người Hy-Lạp có nhiều điều đố kỵ nhau và đã có cãi lẫy cả về tín lý (Côngvụ 5,6:1; 15:2,7) Nhiều lần trong các bức thư của ông, Sứ-đồ Phao-lô đã đau lòng về sự mất đoàn kết trong Hội Thánh và kêu gọi sự hiệp thông trong Hội Thánh. Trong các hoạt động truyền giáo cá nhân của ông, ông bị liên lụy nhiều lần vào các mâu thuẫn, cãi lẫy và phân rẽ giữa vòng hội thánh ( Có một dịp, ông đã viết lại cho những người Cô-rinh-tô rằng nếu như ông đến viếng thăm họ, ông e ngại ông sẽ phát hiện ra giữa vòng họ có nhiều đều “rầy-rà, ghen-ghét, nóng-giận, bất-hòa, nói-hành, kiêu-căng, hỗn loạn chăng”; và các bằng chứng khác về các mối quan hệ cá nhân căng thẳng.
Mặc dầu Kinh Thánh kể lại nhiều ví dụ về chuyện bất hòa, những xung đột cá nhân nhưng không phải kể để mua vui một vài trống canh. Trái lại, sự xung đột hay cãi cọ đó bị Kinh Thánh nghiêm cấm và những nguyên tắc gây dựng các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp được đề cập đến thường xuyên. Sách Châm-ngôn hướng dẫn và dạy dỗ chúng ta hãy cầm giữ miệng lưỡi và tránh điều bất hòa, hãy nói sự thật, nói êm dịu, suy nghĩ trước khi nói, lắng nghe cẩn thận, chống tội nói hành, tránh xu nịnh hay tâng bốc, và tin cậy nơi Đức Chúa Trời.( Ch 10:18-19;12:22; 13:3;15:1;28,31;16:24,28;17:9;19:22; 24:26;26:20;28:23,25) Cơn giận thiếu tự chế, những lời nói vội vàng, sự kiêu căng hợm hĩnh, tự cao, hai lòng, ganh ghét, tranh chiến để tìm điều hơn thua của thế gian và nhiều hệ lụy tệ hại khác mà Kinh Thánh chỉ ra là cội nguồn của những quan hệ xấu giữa các cá nhân.
Sự dạy dỗ này cũng xuất hiện trong nhiều sách khác nữa. Gần trọn bài giảng trên núi của Đức Giêxu bàn đến các mối quan hệ cá nhân (Mat 5:7) Xuyên suốt những năm thi hành chức vụ của Ngài, Đức Chúa Jêsus đã thực hành và giáo huấn nhiều giải pháp giải quyết mâu thuẫn giữa con người (Mat 18:15-35; 20:20-28; 22:36-40; Lu 12:13-15;22:24-26). Phao-lô cũng khuyên Ti-mô-thê không nên cãi vã, lại càng không nên lụy vào những chuyện không quan trọng. Chỗ Kinh Thánh khác cũng cho nhiều hướng dẫn về cách sống hòa thuận với nhau, thể hiện tình yêu thương, và nhiều lời khuyên dọn sạch sự cay đắng và thịnh nộ bằng tấm lòng mềm mại, tha thứ, hiền hòa(Mac 9:50; IITi 2:14;Phi 2:1; ITe 5:13;ICo 13:4-8; Eph 4:31-32) Sứ đồ Gia cơ, sau khi nói lời cảnh báo những người cố ý gây khó khăn và mâu thuẫn trong vòng hội chúng đã kết luận nguyên nhân của nó chính là bởi lòng tư dục và ganh tị cá nhân (Gia 4:1-2). Chỗ khác, sứ đồ Phao-lô liệt kê một bảng hướng dẫn thú vị và thực tế cho cách sống; trong đó Phao-lô dạy cách để tránh sự trả thù là “chớ lấy ác trả ác cho ai,” và hết sức cố gắng để ở cho hòa thuận với mọi người.(Ro 12:17-18)Chúa Jêsus và các tác giả Kinh Thánh là những người hòa giải; Ngài và họ đã dạy và sống như vậy; Ngài và họ trông đợi các tín hữu ngày nay cũng trở nên những người hòa giải (Mat 5:9;Ch 12:20;He 12:24)
Sau đây là nguyên tắc rút ra từ trong Kinh Thánh về các mối quan hệ cá nhân:
1.Các Mối Quan hệ Cá nhân Tốt đẹp đều Bắt đầu với Đức Chúa Jêsus Christ.
Các bài hát và thiệp Giáng Sinh nhắc nhở chúng ta về Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa Bình an.(Lu 2:14;Es 9:6)Trong suốt cuộc truyền giáo của Ngài, Ngài đã tiên đoán trước về sự căng thẳng, bất bình sẽ có thể xảy ra giữa những người theo Ngài và những người bà con, bạn bè bên ngoài của họ (Mat 10:34) Ngài gọi “sự bình an của chúng ta” tức là những ai có thể bẻ gãy những rào cản, những bức tường thù hằn ngăn cách giữa chúng ta.(Eph 2:14-17)
Môn đồ của Đấng Christ được hứa ban cho, theo cách siêu nhiên, một sự bình an có tiềm năng ổn định nội tâm, ngay cả trong hoàn cảnh nhiễu loạn, căng thẳng (Gi 14:27;Phi 4:7). Sự hòa bình với Chúa sẽ đến khi chúng ta xưng ra mọi vi phạm của mình, cầu xin Chúa tể trị đời sống ta, và cầu xin sự bình an y theo Lời Ngài hứa. Đổi lại, sự bình an này phải vận hành trong uy lực trấn an chúng ta ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn.
Vậy thì tại sao các cơ đốc nhân thường gặp nhiều mâu thuẫn giữa vòng họ và mâu thuẫn với cả thế giới bên ngoài? Tại sao nhiều người chúng ta không thể hòa đồng với tha nhân được?
2.Các Mối Quan hệ Cá nhân Tốt đẹp Phụ thuộc vào các Đặc điểm Cá nhân.
Không có gì là sai quấy khi phải ngồi xuống thương lượng, nói cho ra chuyện với nhau nhằm vượt qua những dị biệt, khó khăn giữa cá nhân hay giữa tập thể, quốc gia. Những cố gắng giãn hòa như thế rất có ích, nhưng Kinh Thánh nhấn mạnh hơn vào thái độ và đặc điểm của những con người liên quan cuộc tranh chấp.
Trong lá thư đầu tiên Phao-lô gửi cho người Cô-rinh-tô, ông đã xếp ra ba loại người.(ICo 2:14-3:3) Trươc hết là loại người chưa tin Chúa. Dĩ nhiên, có những cá thể dị biệt, nhưng nhóm người này mang đặc điểm phóng đãng tình dục, vô đạo đức, trác táng, hành nghề đồng bóng, ghen tị, tranh chấp, hung hãn, tham lam ích kỷ, tham vọng tư dục, chia rẽ, bè phái, và nhiều hành vi không tự chủ
(Ga 5:19-21). Nhóm người này có thể khao khát và phấn đấu cho sự bình an, nhưng căn bản xa cách khỏi Đức Chúa Trời của họ làm cho sự hòa thuận bên trong và sự bình an cá nhân không thể đạt được. Nhóm thứ hai là loại người sống theo thế gian, họ đã cam kết sống cho Đấng Christ, nhưng họ chẳng bao giờ trưởng thành thuộc linh. Họ hành động như loại người vô tín và thường có sự ghen tị và cãi lẫy. Vì quá nhiều thành viên Nhà thờ ở trong loại này, chúng ta gặp nhiều thảm cảnh các tín hữu mâu thuẫn gay gắt nhau, thậm chí còn có mâu thuẫn bạo lực với láng giềng của họ và với nhau. Nhiều Cơ Đốc Nhân thế gian này vẫn đọc Kinh Thánh thường xuyên và có một số hiểu biết tốt về lý thuyết, nhưng niềm tin của họ chỉ ở mức độ có tri thức mà hiếm khi áp dụng Lời vào đời sống và vào các mối quan hệ cá nhân. Ngược lại, nhóm thứ ba là loại người thuộc linh, là các Cơ Đốc Nhân luôn nhường quyền điều khiển cuộc sống mình cho Đấng Thuộc Linh và họ luôn đeo đuổi cách suy nghĩ và cách sống như Đấng Christ. Thỉnh thoảng nhóm người này trơn trượt vào phương cách và những hành động thế gian cũ, nhưng thường hơn, cuộc sống của họ thể hiện bằng chứng của “những trái Thánh-Linh” – liên quan tới tình yêu thương, vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, và tiết độ.(Ga 5:22-23)
Khi người ta được thay đổi bên trong, một tiến trình thay đổi chậm rãi thể hiện ra bên ngoài, bắt đầu với cách cư xử của họ. Trong thời gian thay đổi, điều này có thể làm cho họ xây dựng các mối quan hệ cá nhân tốt hơn. Những cố vấn Cơ Đốc có thể ghi nhớ một nguyên tắc quan trọng: đối với sự bình an thật mà ta cảm nhận được từ nội tâm hoặc với mọi người, đầu tiên phải có sự bình an với Đức Chúa Trời. Điều này có được khi người ta cam kết dâng đời sống của họ cho Đấng Christ, có nhiều thời gian hàng ngày để thờ phượng, cầu nguyện, và suy ngẫm Lời của Đức Chúa Trời, bắt chước để có những suy nghĩ và hành động thay đổi.
3.Các Quan hệ Cá nhân Tốt đẹp Liên quan tới sự Quyết định, Nổ lực, và Kỹ năng.
Các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp không luôn luôn xảy ra tự động, ngay cả đối với các Cơ Đốc Nhân tốt. Kinh Thánh và tâm lý học đồng ý với nhau – các mối quan hệ tốt đẹp phụ thuộc vào sự phát triển thích hợp và sự ứng dụng những kỹ năng, như là biết lắng nghe một cách chăm chú, xem xét, hiểu chính mình và những người khác; kiềm chế những lời phê bình hay chỉ trích không tốt, hoặc những cơn thạnh nộ về cảm xúc, và giao tiếp một cách thích hợp. Tất cả những điều này cần phải được học hỏi; tất cả những điều này đều có thể được dạy dỗ bởi một cố vấn Cơ Đốc hiểu biết.
NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC VẤN ĐỀ TRONG
MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Tại sao người ta không thể thân thiện với nhau? Điều này đã được tranh cãi hằng thế kỷ, và các câu trả lời dường như khác nhau tùy trường hợp. Vì vậy, các nguyên nhân có thể được tóm lượt trong vài loại sau đây:
1.Sự Can Dự của Sa-tan.
Sa-tan được mô tả trong Kinh Thánh như là kẻ dụ dỗ và cha của sự nói dối, chính là kẻ giả trang như một thiên-sứ sáng láng và đi rình mò chung quanh để cám dỗ nhiều người và tìm kiếm người nào nó có thể cắn nuốt.(Kh 12:9;Gi 8:44; IICo 11:13-15;Giop 1:7;Mat 4:3;ITe 3:5;; IPhi 5:8) Mặc dầu nhiều người không tin hoặc cười nhạo sự hiện hữu của nó; ma-quỷ và bè lũ rất hung hãn. Cơ Đốc Nhân luôn được dạy phải vững vàng chống cự lại mọi quỷ kế của Satan trong danh của Đức Chúa Jêsus Christ.(Eph 6:10-12; Gia 4:7;IPhi 5:8)
Theo như một học giả Thánh Kinh, “những khát vọng tham lam và tự cho mình là trung tâm của vũ trụ, thuật ngữ ngoại giao dối trá trong thế giới chính trị, lòng căm thù chua cay và sự tranh đua trong thế giới thương mại, các trào lưu vô thần của phần nhiều người trong xã hội - tất cả đều là sản phẩm của Sa-tan.” Trên bình diện cá nhân hơn, Sa-tan “chú ý đặc biệt vào các mối quan hệ Cơ Đốc, và lập mưu mô nhằm quật ngã con cái Chúa hoặc ít ra cũng thoái hóa các quan hệ này.” Cốt lõi của mâu thuẫn cá nhân luôn luôn có bàn tay phù thủy của Sa-tan.
Thật ra Satan không có toàn quyền. Người tin Chúa biết rằng Đức Chúa Trời là đấng Toàn Năng, trội hơn các quyền lực của ma-quỷ. Ma-quỷ chỉ có quyền lực giới hạn và số phận cuối cùng của nó là địa ngục.(IGi 4:4; Mat 25:41; Kh 20:7-10) Nhưng hiện nay chúng còn đang trong thì dãy dụa để hành hại các con cái của Đức Chúa Trời, và nó được phép gieo rắc căng thẳng và gieo rối mâu thuẫn cá nhân cho thế gian.
2.Tùy thuộc vào Thuộc tính, Thái độ, và Phản ứng cùa Cá nhân.
Không có con người hoàn hảo, chỉ có những người dễ thân thiện và những người khác kém thân thiện hơn. Sự căng thẳng cá nhân thường bắt đầu và leo thang với những người có cá tính, thái độ hành xử, quan niệm sống, cảm xúc cá nhân, phong cách cư xử vốn dễ gây ra mâu thuẫn và ngờ vực. Một lần nọ, một người đàn ông đến với Chúa Jêsus thưa rằng “Thầy, xin biểu anh tôi chia gia-tài cho tôi.” Thay vì làm người phân xử, Chúa Jêsus đã đưa ra một lời cảnh báo chống lại kẻ tham lam.(Lu 12:13-15) Rõ ràng mâu thuẫn gia đình của người đàn ông này đã xảy ra bởi vì cá tánh tham lam của họ. Lần khác, Chúa Jêsus cũng đã cảnh báo chúng ta chống lại thói moi móc lỗi của người khác trong khi chính chúng ta thì đầy dẫy lỗi lầm.
(Mat 7:3-5)
Những thói tật phá hỏng mối quan hệ cá nhân tốt đẹp, bao gồm:
• Nhu cầu ích kỷ của kẻ muốn thu hút quyền chỉ huy, muốn được chú ý, muốn tiền bạc, danh vọng.
• Một thái độ đắng cay và không tha thứ.
• Tánh hay bắt bẻ, xét đoán, hay la mắng.
• Nỗi ám ảnh bất an ảnh hưởng đến cách cư xử như là sợ bị từ chối, không dám tin vào người khác.
• Hay xét đoán theo định kiến, thường nghĩ xấu cho người.
• Không có thiện chí “cởi mở” và chia sẻ cảm giác và suy nghĩ của mình.
• Không chấp nhận tính đa dạng của từng cá nhân (tức là tính độc đoán khi ép buộc mọi người phải suy nghĩ giống như mình).
Có thể là không đúng khi cho rằng tất cả những thói trên là những cố gắng có chủ tâm. Sự không tha thứ, giữ lòng thù hận, hoặc đòi mọi người phải theo ý mình đều là tội lỗi, và ta có thể trừ bỏ các thói xấu đó nếu có ước muốn và có quyết tâm, không cần phải có sự trợ giúp nào. Ngược lại, tánh sợ sự thân mật, sự ngượng ngùng bẩm sinh, hoặc tánh đa nghi lại là những ám ảnh hằn sâu trong tâm trí và cần có bạn bè hoặc người cố vấn giúp đỡ.
Tuy nhiên, nhiều người thỉnh thoảng cư xử theo cách thức muốn kiểm soát người khác và chính họ tạo ra sự căng thẳng. Chẳng hạn như, nhiều người tưởng rằng cách tốt nhất để động viên đối tượng là phải đặt đối tượng dưới một áp lực nào đó. Đây là một triết lý tạo căng thẳng chủ trương rằng “Công việc của tôi không phải để chịu vết loét: công việc của tôi là tạo vết loét cho đối tượng!”
Một cố vấn điều hành ghi nhận rằng các vấn đề cá nhân thường xẩy ra hơn khi có những loại người khó chịu can dự vào. Những người này không có nhiều, nhưng họ có một sức ảnh hưởng lớn và nhiều khả năng để gây rối cho người khác. Những người khó chịu bao gồm những người có cá tính hay trau chuốt sự kiêu ngạo đỏm đáng, hay chỉ trích cay độc, thiếu tế nhị, hay tấn công, và sẵn sàng “nổi điên” lên nếu không được thỏa mãn. Buồn cười là, họ là hay phàn nàn, hay tìm vết trong mọi thứ, nhưng chẳng bao giờ tự hoàn thiện mình trước những lời than phiền của người khác; bởi vì họ không nhận trách nhiệm. Một số người khó chịu khác thì im lặng, ít nói và hiếm khi tiết lộ điều mà họ đang suy nghĩ hoặc điều họ đang làm. Một số khác có thể luôn luôn đồng ý và không gây hấn, nhưng rất khó làm việc chung với họ; bởi vì chính họ ôm đồm nhiều thứ và rồi không thể thực hiện những lời cam kết của họ. Ngược lại, những người có cá tính tiêu cực là những người có thái độ bi quan, không chịu chấp nhận bất cứ điều gì người khác đề nghị; vì vậy rất khó mà cộng tác hay thay đổi họ. Lại cũng có những loại “chuyên gia” thích vênh váo, chơi nổi, ta đây biết hết mọi điều và không có tinh thần cộng tác với người khác. Loại người nữa là người không tự quyết, hay do dự, họ chẳng bao giờ hành động hoặc có những quyết định cho tới khi họ hoàn toàn chắc chắn sự quyết định ấy là đúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết loại người này chẳng bao giờ hành động. Hầu hết các cố vấn nhận thấy những biểu hiện này trên khách hàng của họ, trên các đồng nghiệp, các Cơ Đốc Nhân, và cả người nhà của họ. Nhưng độc đáo hơn hết là chúng tôi (người hành nghề cố vấn) thấy các biểu hiện này trên chính con người chúng tôi nữa.
3.Mô hình Mâu thuẫn.
Mâu thuẫn xảy ra khi hai hoặc nhiều người không cùng mục tiêu với nhau lại hiện diện bên nhau, hoặc khi họ cùng cạnh tranh nhau điều gì đó quý hiếm. Diễn đạt cách trịnh trọng là, những người có mâu thuẫn “cân phân thiện chí nhượng bộ các nhu cầu cá nhân của họ về quyền lực, thành tích, kết quả, chiến tích; với nhu cầu quan hệ của họ với tha nhân để đạt lòng tin, ảnh hưởng, gây dựng lẫn nhau và các lợi ích tinh thần khác,.” Mặc dầu mâu thuẫn thường mang nhiều nguy cơ và có tính chất hủy diệt, chúng cũng có thể được dùng rất hiệu quả cho mục đích làm sáng tỏ mục tiêu, hợp nhất một nhóm người, và có khi mang những bất đồng cố hữu ra thảo luận lại để tìm được giải pháp.
Cũng như cá tính giống nhau của con người, nhóm người hay đoàn thể cũng có những loại mâu thuẫn giống nhau và rất khó lay chuyển. Điều này cộng hưởng lại, càng khiến mâu thuẫn tệ hại hơn. Có người bùng nổ cơn giận kiểu người lớn như bĩu môi và giặm chân. Người khác thì la hét, cắt ngang, nhẩy xổm vào cuộc đối thoại, tấn công người đối thoại, hoặc giả vờ không quan tâm đến vấn đề đang được bàn cãi. Nhưng hữu ích nhất là những người có thiện chí giải quyết mâu thuẫn bằng cách sử dụng lời thoại êm dịu để làm nguôi cơn giận,và bằng cách đối đầu với vấn đề một cách cởi mở và thành thật.
Khi có mâu thuẫn, người cố vấn nên cố gắng phát hiện ra trọng tâm vấn đề thực tế liên quan (có thể trọng tâm này còn ẩn tàng, chưa được ai nêu ra). Xem xét cá tính của đối tượng và những người liên đới, nằm trong loại mâu thuẫn nào.
4. Thiếu Lòng Cam Kết Cộng Tác.
Nhiều người, ít nhất là ở Mỹ, sợ nói lời cam kết. Lòng trung thành với bạn bè, gia đình, hội thánh, nghiệp vụ kinh doanh, và quốc gia chỉ là dịch vụ của môi miệng (chỉ nói), và người ta sẽ xé bỏ mọi cam kết sau khi đạt được mục tiêu hoặc lợi ích cá nhân nào đó. Có lẽ bởi vì người ta thích chủ nghĩa khoái lạc ích kỷ hay là vì quá cẩn thận, quá sợ lời cam kết mà nhiều người khước từ việc cam kết với người khác, hoặc với đoàn thể khác. Hoặc không muốn cam kết, hoặc nhanh chóng nuốt lời hứa khi có thứ gì khác hấp dẫn hơn xuất hiện.
Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn tới căng thẳng cá nhân, nhưng một nguyên nhân chung chính là không giữ lời cam kết cho đến cùng. Người ta cố tránh nói lời cam kết nhưng sự thật là người ta cũng đang tự động cam kết với một thứ khác. Ta không muốn cam kết với người khác, với Đức Chúa Trời; hoặc khi chúng ta tự do bỏ lời cam kết của miệng chúng ta; có nghĩa rằng chúng ta tìm đến cam kết với sự đơn độc, với thất bại cá nhân, với những căng thẳng hoặc giận dữ.
Thiếu sự cam kết không luôn luôn vì lý do lười biếng hoặc vì các ước muốn ích kỷ khác. Người ta có thể quên đi những lời cam kết trước của họ, bận rộn với những thứ khác, hoặc hối tiếc về lời đã cam kết. Có khi lời cam kết bị tổn thương nghiêm trọng đó là trường hợp chúng ta tin cậy vào một người bạn hay một cộng tác viên mà cam kết rồi sau đó họ phản bội chúng ta. Một nhận xét từ thực tế cho rằng không lạ lùng nếu “thiếu sự tin cậy trong nhóm những người cùng làm việc với nhau thì ắt hẳn quan hệ của họ sẽ có sự khó khăn.”
5. Thất bại trong Đối Thoại.
Mấu chốt để gây dựng quan hệ cá nhân tốt đẹp là phải có đối thoại tốt đẹp. Khi đối thoại không hiệu quả hoặc có nguy cơ sụp đổ, thì quan hệ cá nhân cũng thường dẫn đến căng thẳng. Ngay cả khi mối quan hệ chỉ trong phạm vi hai người với nhau, cũng có nhiều tính chất căn bản ta cần biết để tránh thất bại. Ví dụ đơn giản nhất, một cái máy nhắn tin cố gắng “giao tiếp” để chuyển một thông điệp tới một máy nhận tin. Tiến trình này trục trặc, nếu như:
• Người gởi thông tin diễn đạt không rõ ràng (người gởi chưa suy nghĩ rốt ráo hoặc cách diễn đạt không rõ ràng).
• Người gởi e ngại, xấu hổ, dối trá, hoặc muốn gửi một thông tin nước đôi trong lời nói hoặc cử chỉ.
• Người gởi nói một đàng nhưng biểu hiện một nẻo cư xử khác (chẳng hạn như, người gởi nói “Tôi buồn,” nhưng lúc đó lại cười và đùa cợt). Đó cũng là ví dụ của kiểu thông tin “nước đôi”. Những kiểu thông tin này rất nguy hại cho việc gây dựng tương giao tốt đẹp.
• Người gởi lầm bầm, càu nhàu, la hét, hoặc bẻ cong thông tin khiến cho thông tin thiếu minh bạch, rõ ràng.
• Người nhận không thể nắm bắt được thông tin.
• Người nhận không chú tâm đón nhận thông tin; có lẽ bởi vì không thích, không tin, sợ bị thuyết phục, hoặc vì một lý do nào khác
• Người nhận thêm suy diễn của mình vào trong thông tin, hoặc bỏ đi những chi tiết mà họ không muốn nhận.
Ngoài những khó khăn trên, thái độ của người nhận cũng đáng lưu ý. Cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và lời nói, phản ứng được phóng ra trước khi thông tin gởi chấm dứt. Điều này kích ngược lại người gởi và khiến cho người gởi thay đổi thông tin, giọng điệu giữa chừng.
Trong các quan hệ sơ giao, các đối tác không biết nhau, sự giao tiếp sẽ phụ thuộc rất nhiều vào đối thoại và các biểu hiện công khai. Trong các quan hệ thân tình, các đối tác có thể hiểu cả nét máy môi, chau mày, âm sắc, lửng câu nói, tiếng ho khan của nhau. Những kiểu bày tỏ này gia tăng tốc độ thông tin, nhưng chúng cũng là tiềm năng tạo ra hiểu nhầm nhau. Bởi vì sự thân mật thường khiến người ta hiểu nhau qua những kinh nghiệm trong quá khứ thay vì nên tập trung vào chính thông tin hoặc vào người gởi thông tin trong hiện tại.
6. Những Chất Kích thích Xã hội.
Những biến cố hoặc những điều kiện trong xã hội có thể cản trở các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp. Căng thẳng dường như nổ ra nhiều trong chỗ thành thị đông người, hơn là ở những vùng ngoại ô, vắng vẻ, hoặc nông thôn. Phải co cụm lâu trong nhà hay các cao ốc vì khí hậu khắc nghiệt bên ngoài khiến cho người ta dễ nóng nẩy, cãi vả. Khi nền kinh tế trong xã hội gặp khó khăn, nhiều nhu cầu thiết yếu không thõa, đình công, thất nghiệp, chính trị thối nát, ngay cả có những bất đồng giữa hàng xóm, đồng nghiệp vì khác chính kiến, chia rẻ trong Nhà thờ, thậm chí có chiến tranh.
Trên phạm vi cá nhân, những tranh chấp hàng ngày, những khiêu khích, bất bình, đòi hỏi lẫn nhau có thể khiến chúng ta mệt mỏi, nổi giận, ghen tị. Khi không thoát ra được các điều thị phi đó, hoặc ra khỏi những đòi hỏi của một môi trường làm việc khó khăn, hoặc ra khỏi những kẻ quấy rầy (bao gồm gia đình), sự căng thẳng thường xuất hiện và khiến thương tổn dần dần quan hệ cá nhân.
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN THẤT BẠI
Người ta phản ứng khác nhau đối với sự căng thẳng. Có người kháng cự lại, có người tránh né, có người cảm thấy thất vọng trầm trọng, có người thì quá chán chường, nhưng cũng có người vượt thắng trên hoàn cảnh đó. Sự căng thẳng rất là đáng sợ, cho nên chúng ta thường có hành động nhằm bảo vệ chính chúng ta. Chẳng hạn như chúng ta che đậy những cảm xúc thật của mình và những tình trạng bất ổn của chúng ta. Có khi kiếm cách xách động người khác hay là đóng bộ dạng không thực sự là chúng ta. Tất cả những xảo thuật đều phải trả một cái giá và để lại hậu quả cho chính chúng ta về thể chất, về tâm lý, về xã hội, lẫn về thuộc linh.
Chúng ta chắc không lạ gì các dạng suy sụp thể chất do sự căng thẳng của cuộc sống và của quan hệ cá nhân thất bại gây ra. Sự mõi mệt, cơ bắp rã rời, nhức đầu, đau bụng hay bao tử xáo trộn, loét, và nhiều dạng phản ứng sinh học khác nhau, đặc biệt là đối với người che đậy hay chối cảm xúc căng thẳng của mình. Một nhà quan sát nhận thức được điều này đã viết, khi chúng ta cố gắng che giấu những cảm xúc hoặc những căng thẳng của chúng ta, bao tử của chúng ta sẽ gánh hết mọi tác hại.
Trên phương diện tâm lý, nếu quan hệ cá nhân thất bại thì cảm xúc của đương sự cũng bị rối loạn dẫn tới những biểu hiện khó lường, nhẹ từ thái độ bất họp tác cho đến mức kinh khủng là muốn giết người. Khi gặp căng thẳng, người ta thường bị trầm cảm, mang mặc cảm phạm lỗi, thất chí, thiếu tự tin, và lo lắng. Cũng có khi đương sự nổi giận, cay đắng, hoài nghi, và lộ các hành động thị oai, khống chế người khác, bạo lực, hoặc trả thù. Khi họ cảm thấy bị đe dọa hoặc thất bại trong những cố gắng kết thân với người khác, họ thường có hành động thiếu suy nghĩ. Miệng cứ nói, tay cứ làm xong thì lại thấy hối.
Điều này dẫn chúng ta đến các ảnh hưởng Xã hội của sự căng thẳng cá nhân, bao gồm lời nói đấu đá, bạo lực, cắt đứt quan hệ. Chẳng hạn như, hai đối tác kinh doanh kết thúc quan hệ làm ăn cách đột ngột, một gia đình đột ngột bỏ Nhà thờ, người làm công bỏ việc, vợ chồng quyết định chia tay nhau, hoặc hai quốc gia tuyên chiến với nhau về một nguyên nhân vô nghĩa lý. Các hành động như thế cứ leo thang mà không giải quyết được điều gì. Nó chỉ thõa mãn cơn khát vọng quyền lực hủy phá và máu trả thù, những phản ứng rất nặng tính hủy diệt đó rồi cũng kéo đương sự, sau đó, tới tận cùng của sự cô đơn, đau khổ và hối tiếc.
Không một điều nào nói trên có thể giúp người ta trong lãnh vực thuộc linh. Trong vườn Ê-đen, ma-quỷ đã thành công trong việc kích động sự căng thẳng giữa Đấng Sáng tạo và các loài thọ tạo của Ngài. Khi họ ăn trái cấm, A-đam và Ê-va đã bị phân cách khỏi Đức Chúa Trời, và liền đó, họ đổ lỗi nhau và khiển trách nhau. Trong nghĩa rộng hơn, tất cả mọi căng thẳng cá nhân đều là kết quả và sự phản ánh của tội lỗi. Khi người ta bị phân cách khỏi Đức Chúa Trời hoặc bị phân cách khỏi nhau, người ta không thể trưởng thành về cảm xúc và về thuộc linh được.
Khi mâu thuẫn tồn tại bởi vì thái độ thiếu trưởng thành của các bên đối tác tự cho mình là trung tâm điểm, thì loại mâu thuẫn này rất vô nghĩa nhưng tác hại vô cùng, mặc dầu kinh nghiệm này cũng có thể kích thích sự trưởng thành.
TƯ VẤN CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Tiên tri Ê-sai đã có lần vẽ cảnh khung trời tương lai khi lang sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư-tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi.(Es 11:6) Cho tới lúc đó, hết thảy chúng ta sẽ phải sống với ít nhất vài sự căng thẳng cá nhân. Mâu thuẫn xã hội chắc chắn xảy ra khi thế giới đầy dẫy con người là những người thiếu thốn, khi các nguồn cung cấp bị giới hạn, và nhu cầu phụ thuộc lẫn nhau. Theo một nhà nghiên cứu của trường đại học Michigan, chúng ta sẽ đối diện với thách thức điều khiển sự leo thang giữa các dân tộc và giữa con người với nhau, vì vậy bây giờ chúng ta nên học cách giải quyết mâu thuẫn cá nhân mang tính hủy phá và những cuộc chiến giữa các quốc gia.
Để sống hài hòa với tha nhân, chúng ta cần phát triển những cá tính như là tự xét, tử tế, quan tâm, nhạy bén, và kiên nhẫn. Muốn gây dựng quan hệ cá nhân tốt đẹp cần phải rèn luyện kỹ năng, bao gồm những khả năng biết lắng nghe, giao tiếp, và hiểu biết. Những kỹ năng hiệu quả này không xuất hiện giống như trò ảo thuật. Chúng ta cần học tập chúng, với sự giúp đỡ của một người cố vấn nhạy bén, nếu có thể được. Sự giúp đỡ này bao gồm vài lãnh vực sau:
1.Bắt đầu với những Cơ bản.
Tình yêu thương hiếm khi được nhắc đến trong văn chương tư vấn, nhưng điều này tràn ngập văn chương Tân Ước. Chính bởi tình yêu thương mà Đức Chúa Trời đã sai Con Một của Ngài vào trong thế gian để chết thế cho loài người tội lỗi. Chính tình yêu thương là mỹ đức cao quý nhất, vĩ đại nhất của Ngài; bản tánh ấy là đặc điểm sinh tử đối với Cơ Đốc Nhân và là dấu hiệu phân biệt một người có phải là cơ đốc nhân hay không.( ICo 13:13; IGi 4:8; Gi 13:35)
Một mục tiêu trong sự tư vấn là giúp đỡ người ta trở nên biết yêu thương nhau hơn. Trong bất kỳ tình huống tư vấn nào, chúng ta bắt đầu bằng việc lắng nghe và cố gắng hiểu được vấn đề; người cố vấn cũng phải thể hiện tình yêu thương trong thái độ lắng nghe, ánh mắt dịu dàng và thỉnh thoảng nói về tình yêu thương với người được tư vấn. Cố gắng “quyết định” nói về tình yêu thương nếu như người đó là một tín hữu. Vạch cho thấy việc giao phó hoàn toàn cho Đấng Christ sẽ thay đổi được thái độ của chúng ta; và do đó phục hồi được các mối quan hệ của chúng ta với những người khác. Khi một cá nhân đầu phục Đấng Christ thì không có nghĩa rằng mọi vấn đề giao tiếp của người ấy đều tự nhiên biến mất. Sự thu thập kỹ năng cũng quan trọng, nhưng những kỹ năng cá nhân hiệu quả hơn khi người sử dụng kỹ năng mang đặc tính yêu thương, kiên nhẫn, tự chủ, và đầy những trái Thánh Linh.
Người cố vấn Cơ Đốc nhạy bén phải nhận ra được rằng sự căng thẳng trong quan hệ cá nhân trên cơ bản liên quan tới hoạt động của Sa-tan. Những kỹ thuật cố vấn không trấn áp nổi quyền lực của ma quỷ cho nên người cố vấn tự mình phải hằng nhờ cậy Đức Thánh Linh hướng dẫn và trang bị bằng Lời Chúa hàng ngày. Kiên trì cầu nguyện không thôi “cho hết thảy các thánh đồ,” bao gồm những người được mình tư vấn.((Eph 6:10-18)
2.Thay đổi mỗi Cá thể.
Vì những mâu thuẫn cá nhân thường do bản tánh, thái độ sỉ nhục, cách cư xử khắc nghiệt của các bên đối tác, cho nên giúp đỡ để mỗi cá nhân thay đổi là việc làm có giá trị. Những người được tư vấn thường không nhận thức được chân bản tánh và cách cư xử của họ; điều này tạo ra hoặc leo thang lên sự căng thẳng cá nhân. Thường thì người được tư vấn nhanh chóng nhận ra lầm lỗi của những người khác (Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi), nhưng lại chậm chạp hơn để thấy những sự yếu đuối của riêng mình (mà chẳng thấy cây đà trong mắt mình?) (Mathio7:3-5). Vì vậy, tế nhị chỉ ra những lỗi lầm cá nhân này và những phương cách cư xử tự diệt “cái tôi” sẽ rất hữu ích. Cố gắng đưa ra những ví dụ cụ thể để hỗ trợ, minh họa những nhận xét của bạn và mời người được tư vấn đáp ứng. Thỉnh thoảng bạn nên khích lệ người được tư vấn của bạn nói về chỗ mạnh và chỗ yếu đuối của cá nhân họ với một người hay hai người khác (chia sẻ), nói với chính họ (tự kiểm tra bản thân), và đặc biệt là thành thật với Đức Chúa Trời (xưng tội).
Đôi khi bạn thay đổi không khí bằng cách khuyến khích người được tư vấn chia sẻ nan đề của họ cho người khác nhưng cũng nên tìm đến những người nào biết trân trọng, chịu trách nhiệm các thông tin cá nhân và không tạo những vụ xìcănđan vô nghĩa cho đương sự. Bạn cũng không khuyến khích một cách bừa bãi cho những người được tư vấn tiết lộ các chi tiết riêng tư của cuộc đời họ cho nhiều người khác. Khi người được tư vấn chia sẻ với một hoặc hai người khác, bao gồm người cố vấn, những căng thẳng bên trong có thể giải tỏa, và nhiều người được hiểu chính mình nhiều hơn. Sự hiểu biết này thường hướng tới những thay đổi trong cách cư xử mà chúng lần lượt góp phần trong các mối quan hệ ngọt ngào hơn với những người khác. Khi có sự tự hiểu biết tốt hơn, có sự tự do lớn hơn để tìm hiểu các nhu cầu của người khác sẽ thực hiện việc xây dựng các mối quan hệ cá nhân tốt hơn.
Người cố vấn Cơ Đốc biết rằng những thay đổi cơ bản nhất và tồn đọng lâu nhất là khi con người đến cùng Đức Chúa Trời. Người được tư vấn cũng như người tư vấn, tất cả đều cần có quan hệ thích hợp và trưởng thành với Đức Chúa Jêsus Christ để giúp phá vỡ các bức tường ngăn cách giữa con người, có thể giúp họ từ bỏ được sự cay đắng và tránh sự thiếu nhạy bén làm chia rẻ họ, và có thể góp phần vào sự bình an và hợp nhất bên trong.(Eph 2:14-16;4:29;5:1)
3.Các Mối quan hệ Tốt đẹp Gương mẫu.
Một vài người được tư vấn hiếm khi kinh nghiệm được sự kính trọng lẫn nhau hoặc kinh nghiệm được các mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Vì vậy, sự tương tác giữa người cố vấn và người được tư vấn có thể là một gương mẫu của sự chăm sóc, kính trọng, và sự tương tác tích cực với nhau. Gương mẫu này có ý nghĩa rất lớn – một số người cố vấn tin rằng mối quan hệ chăm sóc là nền tảng đối với hiệu quả tư vấn.
Các mối quan hệ gương mẫu này có khi bị dẫn tới sự đối đầu và sự đấu khẩu khi đụng tới các chủ đề đau thương, tế nhị, cho nên người cố vấn luôn luôn tìm cách hướng, kéo đối tượng lại bằng những lời khích lệ thích hợp. Điều này là một khởi đầu trong việc xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, nhưng khi người ta được một người cố vấn khích lệ, họ thường có thể giải quyết nan đề của họ tốt hơn, và trải qua thời gian, họ có thể kinh nghiệm được sự đáp ứng tích cực khi họ thực hành việc khích lệ người khác
4.Dạy dỗ Giải pháp Mâu thuẫn.
Theo như David Augsburger nói, mâu thuẫn là tự nhiên, bình thường, vô thưởng vô phạt, và có khi vui vui. “Chúng ta không cần quan tâm nhiều đến mâu thuẫn, nhưng mà là cách thức mâu thuẫn được giải quyết thế nào. . . . Chúng ta thể hiện nó ra sao, chúng ta làm sao để hài hòa những dị biệt của chúng ta – quyết định cả cuộc đời chúng ta liên quan tới đó.” Agusburger nói tiếp – người ta có thể được giúp đỡ để thể hiện các mâu thuẫn như là những sự khác nhau thực hữu. Những mâu thuẫn này có thể được giải quyết là khi người trong cuộc sẵn sàng đối xử với nhau bằng sự tôn trọng nhau và sẵn sàng đối diện nhau với những phương cách tràn tình yêu thương thành thật thổ lộ ra ngoài.
Yêu cầu người được tư vấn miêu tả những mối bất đồng cụ thể gần đây họ có. Các vấn đề là gì, ai liên quan tới chúng, và mâu thuẫn được giải quyết ra sao? Những sự khác nhau giữa các mâu thuẫn được giải quyết cách hiệu quả là gì và những sự khác nhau giữa các mâu thuẫn không được giải quyết hiệu quả là gì? Bạn có thể thấy được những loại mâu thuẫn đang phát triển tự nhiên không? Với những câu trả lời cho các câu hỏi như thế này, bạn và người được tư vấn của bạn có thể cùng giải quyết, phân loại các mục tiêu, hài hòa những điểm dị biệt, và tìm các phương cách để giải quyết các mâu thuẫn.
a.Phân loại các Mục tiêu.
Đó là trường họp người ta ở trong mâu thuẫn, nhưng họ có cùng mục tiêu giống nhau mặc dầu họ có những điểm khác nhau. Chẳng hạn như, các giảng viên của một phân khoa đại học cùng muốn có chất lượng trong giáo dục, nhưng khi người này mâu thuẫn với người về giáo án, sách giáo khoa. Một người chồng và người vợ có thể cả hai có thể muốn có một cuộc hôn nhân tốt đẹp, nhưng khi họ ở trong sự mâu thuẫn, đương đầu với nhiều chi tiết trong cách sống của họ, quản lý tiền bạc, hoặc nuôi dạy con cái. Cả hai người có thể muốn thấy mối mâu thuẫn của họ được giải quyết trong một phương cách mà hai người đều có thể đồng ý, cả hai đều có lợi, và cả hai đều có hướng muốn làm tăng mối quan hệ giữa họ trở nên tốt đẹp; vì vậy, sự giao tiếp trong tương lai của họ sẽ được cải thiện.
Trong khi làm việc với những loại người này, cố gắng làm giảm sự lý luận hay sự thương lượng đòi hỏi thế thượng phong. Trên lý thuyết, sự thương lượng đòi địa vị xuất hiện khi mỗi bên có một địa vị trí nào đó, rồi trả giá để nâng cấp cho tới một giải pháp mà hai bên có thể đồng ý. Trong thực tế, mỗi bên đều cứng cõi theo yêu cầu của mình, bám chặt nó. Như là một kết quả nghiên cứu, tánh khí thường lộ ra, thỏa hiệp hay nhượng bộ bị coi như yếu thế, mất mặt; cho nên thường ít hoặc chậm. Mà nếu có kết quả cũng sẽ tồn động cơn giận dai dẳng trong họ. Để tránh điều này, yêu cầu những người đang tranh cãi xem xét lại điều mà mỗi người trong họ thật sự muốn và nhấn mạnh mục tiêu giống nhau của họ. Khi các mục tiêu tương tự nhau, giải pháp giải quyết mâu thuẫn sẽ dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, hai bên thường có các mục tiêu khác nhau. Nếu người vợ mong muốn sự bất hòa trong hôn nhân được hàn gắn, nhưng người chồng lại muốn ly hôn, vì người chồng muốn mình có thể cưới người bạn gái mới; lúc này, giải pháp giải quyết mâu thuẫn trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Việc nói về các chủ đề như là tài chánh, lối sống, hoặc các quan điểm trái ngược nhau về tôn giáo – tất cả đều không giúp ích gì được cho việc đem lại sự hòa bình, bởi vì các mục tiêu cuối cùng của người chồng và người vợ hoàn toàn khác nhau.
Trong việc tư vấn của bạn, hãy nhớ rằng hầu hết các mâu thuẫn liên quan tới các chủ đề và các mối quan hệ của họ. Chẳng hạn như, một người cha và đứa con gái ở tuổi thiếu niên có thể bàn cãi về các phẩm chất đáng khen hay công lao của người bạn trai mới của đứa con gái. Đây là chủ đề đang được tranh luận, nhưng bên dưới chủ đề, có thể có một câu hỏi về mối quan hệ có sức ép hơn về ai là người có quyền hơn trong gia đình: người cha hay đứa con gái. Các mục tiêu của các đối tác này có thể nắm bắt được ngay trong các thuật ngữ của họ khi họ bàn bạc các chủ đề (để đạt đến sự kết luận nào đó về người bạn trai) hoặc trong các thuật ngữ của các mối quan hệ (để khẳng định và duy trì sự điều khiển người khác). Những điểm dị biệt này sẽ không luôn luôn được nhận ra hoặc được nói đến; vì vậy, người cố vấn phải quan sát thái độ của họ với nổ lực lớn để có thể quyết định xem các mục tiêu được nêu tên ra là thực hữu hay là chính các mục tiêu đang ẩn tàng và gây sức ép buộc nhất mới là thực hữu.
Khi các mục tiêu được nhận dạng và được phân loại, chúng có thể đạt đến đích, được hiểu, và cho phép cách dễ dàng hơn. Trong việc tư vấn, đầu tiên hai người có thể được nhắc nhở về các mục tiêu mà họ cần chia sẻ với nhau. Sau đó, sẽ thảo luận về những điểm dị biệt.
b.Thỏa hiệp các điểm dị biệt.
Trong khi nói chuyện với các môn-đồ của Ngài, Chúa Jêsus đã thảo ra những nét chính về một tiến trình để phục hồi các mối quan hệ giữa Cơ Đốc nhân với nhau (Ngài đã nói về sự tha tội trong Mat 18:15-22), họ là những người lạc lõng, không tin tưởng nhau. Nguyên tắc có thể không dành cho người ngoài Chúa, nhưng đặc biệt áp dụng cho người theo Đấng Christ. Trong việc tư vấn các tín hữu, người tư vấn Cơ Đốc nên khuyến khích những người được tư vấn theo trình tự hướng dẫn sau đây:
Bước một: Nên ở thế chủ động và đi đến người làm sai hoặc người làm bạn buồn. Tân Ước ám chỉ đến điều này – hãy nên giải quyết vấn đề cách cá nhân và riêng tư (“hãy trách người khi chỉ có ngươi với một mình người”). Trong khi giải quyết điều này, chúng ta nên đi vào vấn đề với tinh thần yêu thương, nhân từ, khiêm nhường; với thái độ sẵn sàng biết lắng nghe; một quyết định không tranh cải; và với một mong ước tha thứ.
Bước hai: Mời vài người làm chứng. Nếu như người đó không chịu lắng nghe hoặc thay đổi, nên mời một hay hai người làm chứng (“hãy mời một hai người đi với ngươi”). Những người này biết lắng nghe, đánh giá, quyết định sự việc, và có lẽ cố gắng phân xử và đưa ra một giải pháp cho sự tranh cãi này.
Bước ba: Nói với Hội Thánh (“hãy cáo cùng Hội Thánh”). Nếu như người đó vẫn khăng khăng không chịu lắng nghe, vẫn từ chối thay đổi, từ chối hợp tác giải quyết vấn đề; thì có thể rút phép thông công (“thì hãy coi người như kẻ ngoại và kẻ thâu thuế vậy”).
Có phải tất cả điều này như là cách giải quyết lỗi thời chăng? Các Hội Thánh ngày nay cũng vậy, có vẻ như muốn bỏ qua tội lỗi cho các thành viên của họ hơn, và nhiều Cơ Đốc nhân chỉ phiếm luận về sự đấu tranh nội bộ giữa các Hội Thánh. Có lẽ ngày nay đôi người thất vọng về sự rút phép thông công. Trong một trường hợp xử gần đây, một thành viên trong Hội Thánh đã kiện một giáo đoàn khi họ ngăm dọa rút phép thông công. Việc tố tụng này đã khiến các nhà lãnh đạo Hội Thánh phải vạch trần lối sống của người nữ thành viên đó và xâm phạm sự riêng tư của cô bằng việc công khai hóa về những phẩm hạnh suy đồi của cô.
Không dễ dàng gì để làm theo những lời chỉ dẫn của Kinh Thánh đối với cuộc sống riêng tư. Để tha thứ bảy mươi lần bảy, đưa má kia cho người ta vả luôn, lấy đều thiện trả ác, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ chúng ta – những điều này và các lời chỉ dẫn khác trong Bảng 16-1 (Table 16-1) – tất cả đều khó khăn để làm theo hay thực hiện trong thời hiện đại của chúng ta khi chủ nghĩa cá nhân được đề cao.53 Vì thế, người tín hữu nên tìm cách thực hành lời chỉ dẫn trong Thánh Kinh, ngay cả khi những lời chỉ dẫn này rất khó thực hiện. Người được tư vấn và người tư vấn thường phải cùng nhau cân nhắc điều mà Chúa Jêsus có thể làm ngày hôm nay nếu như Ngài đang ở trong vai trò tư vấn.
Vài lời chỉ dẫn của Kinh Thánh
đối với các mối quan hệ cá nhân
NÊN:
Thông cảm, nhơn từ, và yêu thương
(Ga 5:22; Eph 4:32; Co 3:12,14; IPhi 3:8; 4:8; IGi 3:11)
Mềm mại, hòa nhã, và lịch thiệp
(Ga 5:23; Eph 4:2; Co 3:12; 4:6; ITi 3:3; Tit 1:8; 3:2; IPhi 3:4)
Khiêm nhường, dịu dàng, tôn trọng người khác
(Mat 5:3-5; Gi 13:34; Eph 4:2; Co 3:12; IPhi 3:8; 5:5)
Rộng rãi và sẵn sàng ban cho
(Mat 5:42; 10:42; 25:35-36,42-43; Mac 12:41-44; Ro 12:8,13; IPhi 4:9; IGi 3:17)
Hiếu khách, không cằn nhằn
(Ro 12:13; He 13:2; IPhi 4:9; ITi 3:2)
Tiết độ và cư xử có chừng mực
(Ga 5:23; ITi 3:2; Tit 1:8; 2:1,5-6; IPhi 5:8; IIPhi 1:6)
Sẵn sàng thể hiện sự thương xót, ngay cả khi người khác không xứng đáng
(Mat 5:7; 18:33; Lu 6:36; Ro 12:8; Gia 2:13; 3:17)
Là người giảng hòa, hãy tìm cách sống hòa thuận với mọi người
(Mat 5:4; Ro 12:18; Ga 5:22; ITe 5:13; IPhi 3:8; IIPhi 3:14; Gia 3:17)
Nhẫn naị, ngay khi có lời khiêu khích
(ICo 13:4-5,7; Ga 5:22; Eph 4:2; Co 3:12; ITe 5:14; IITi 2:24)
Thỏa lòng, không khao khát hay cầu xin những đều quá sức chúng ta, ngoài những sự mình có
(IICo 12:10; Phi 4:11; ITi 6:6-8; He 13:5)
Mạnh mẽ, kiên quyết, không lay chuyển đức tin
(Mat 14:29-31; ICo 15:58; Gia 1:6-8)
Nương tựa lẫn nhau
(Eph 5:21; IPhi 2:13,18; 3:1; 5:5)
Tha thứ cho nhau nhiều lần
(Ga 5:22; Eph 4:32; Co 3:12,14; IPhi 3:8; 4:8; IGi 3:11)
Liên tục khích lệ và có hướng gầy dựng nhiều người khác
(Eph 4:29; 6:22; ITe 4:18; 5:11,14; He 3:13; 10:25)
Thành thật, nói sự thật trong tình yêu thương
(IITi 2:15; IPhi 2:15; 3:15-16; Eph 4:15; IICo 6:7)
Cầu nguyện, cầu nguyện cho cả những người gây ra các vấn đề cho chúng ta
(Mat 5:44; Lu 6:28)
KHÔNG NÊN:
Kiêu ngạo hay lố bịch, trịch thượng, xách mé
(Ro 12:16; ICo 13:4; IITi 3:1-2; Giu 1:16)
Giận dữ, hay gắt gỏng, dễ gây sự
(Mat 5:22; Ga 5:20,23; Co 3:8; ITi 3:2; Tit 1:7; Gia 1:19-20)
Ích kỷ, khăng khăng theo cách riêng của mình, tự cao tự đại, coi mình là trung tâm
(Gi 3:14,16; Ro 12:10; 15:1-3; ICo 10:33; Phi 2:3; IIPhi 2:3; Giu 1:12)
Xúc phạm hay tấn công người khác
(ICo 10:32; IICo 6:3)
Chửi thề, đặt tên tục cho người khác, hoặc xử dụng ngôn ngữ kém văn hóa
(Mat 5:22; 12:36; Co 3:8; Gia 5:12)
Đoán xét, bới lỗi lầm của người khác
(Mat 7:1-5; Lu 6:37; Phi 4:8; Giu 1:16)
Ăn miếng trả miếng, lấy ác trả ác
(Ro 12:17-20; ITe 5:15; IPhi 3:9)
Nói xấu, nói hành
(IICo 12:20; ITi 6:20; IITi 2:16,23; Tit 3:9)
Than phiền hoặc lằm bằm
(Gi 6:43; ICo 10:10; IPhi 4:9; Gia 5:9; Giu 1:16)
Thích tranh cãi, hay gây gổ, hung hăng, hay đòi hỏi
(IITi 2:24; Tit 3:2; ITi 3:3)
Vu khống, dựng chuyện, nói chứng dối cho người
(IICo 12:20; Eph 4:31; Co 3:8; IITi 3:3; Tit 3:2; IIPhi 3:3; Giu 1:18)
c.Giải quyết các mâu thuẫn.
Khi mọi người, các nhóm, hoặc các quốc gia ở trong tình trạng mâu thuẫn, họ có bốn sự lựa chọn về sự chỉ dẫn mà họ có thể có được. Họ có thể tìm cách tránh đi mâu thuẫn, duy trì mâu thuẫn ở mức độ hiện tại, hoặc để mâu thuẫn leo thang, hoặc làm giảm mâu thuẫn. Chúng ta biết, có người không muốn làm giảm mâu thuẫn, nhưng có khi lại quyết định đi vào những sự hướng dẫn khác. Chẳng hạn, một người phối ngẫu muốn tránh đối diện với mâu thuẫn, và hy vọng rằng mình không có mâu thuẫn hay mâu thuẫn đó có thể mất đi; nếu như mâu thuẫn bị quên đi trong một lúc. Người phối ngẫu kia lại có thể muốn mâu thuẫn leo thang, có lẽ trong một nổ lực nào đó để nắm quyền.
Giải pháp để giải quyết mâu thuẫn thường liên quan đến người tư vấn trong việc thương lượng và suy ngẫm. Sẽ không khôn ngoan nếu bạn dính vào mâu thuẫn nào đó của người khác, ngay cả khi bạn được mời để làm điều đó. Người can thiệp bị áp lực sẽ không biết đứng ở phía nào, bị yêu cầu có những quyết định được phân tích nhanh chóng, và sẽ phải chịu trách nhiệm đối với việc giữ cho sự giao tiếp luôn luôn cởi mở. Nếu như bạn được lựa chọn như là một người tư vấn, bạn nên cố gắng:
• Thể hiện sự tôn trọng đối với cả hai bên.
• Hiểu mọi vị trí của cả hai bên mà không có sự thiên vị bên nào.
• Giúp cả hai bên khẳng định lại chính mình, và khơi cho họ niềm hy vọng nếu như bạn cảm thấy có lý do để làm việc này.
• Khích lệ sự giao tiếp cởi mở và biết lắng nghe nhau.
• Tập trung vào những thứ có thể thay đổi được.
• Cố gắng giữ mâu thuẫn đừng leo thang (trừ khi điều này có thể làm gãy đổ sự giao tiếp).
• Tóm lượt tình huống và những vị trí thường xuyên.
• Giúp người được tư vấn tìm được sự giúp đỡ phụ thêm, nếu như sự suy ngẫm của bạn có vẻ không có hiệu quả.
Theo như một nhóm thương lượng, giải pháp giải quyết mâu thuẫn hầu như là thành công nếu như phương pháp bốn bước được áp dụng.
Bước một: Phân những người liên quan ra khỏi vấn đề đó. Điều này có nghĩa là đối xử với nhau bằng sự tôn trọng, tránh tất những lời nói xúc phạm nhau, gọi tên tục, hoặc những sự xét đoán về cá tính, và đưa ra sự chú ý thay vì đem lại các chủ đề. Mỗi bên nên cố gắng hiểu nhau, qua những quan niệm, những nỗi sợ hãi, những sự thiếu bảo đảm, cùng những ao ước của hai bên. Nên suy nghĩ về chính mình như là những thành viên tham dự vào, liên quan đến.
Bước hai: Tập trung vào các chủ đề, không phải là các vị trí hay địa vị của bên nào. Khi một cô gái mười chín tuổi, gần đây đã tuyên bố với cha cô rằng cô đang dự tính mua một chiếc xe mô-tô, ông bố lập tức không đồng ý với cô. Ở đây có hai vị trí (hay hai người) đang mâu thuẫn – xem xét khả năng có mâu thuẫn trong gia đình: cô nói rằng cô có thể có một chiếc xe mô-tô; ông bố lại nói rằng không được. Tuy nhiên, điều này bộc lộ sự phản ảnh nào đó – chủ đề thực tế – ông bố ao ước cho con gái của mình có được phương tiện đi lại an toàn, tin cậy, và không đắt tiền. Khi chủ đề chung này được đem ra nhận dạng, và khi ông bố cùng cô con gái mỗi người đều quyết định đạt đến với tinh thần cởi mở, họ sẽ có những sự lựa chọn khác nhau và tiến đến một sự giàn xếp (một chiếc xe hơi nhỏ mà ông bố có thể giúp tài chánh) mà không có “chiến tranh” trong nhà. Mâu thuẫn đã được giải quyết, bởi vì người cha và cô con gái đã tập trung vào chủ đề thực tế – phương tiện đi lại – họ tránh việc bảo vệ các vị trí cứng nhắc.
Bước ba: Suy nghĩ về các sự lựa chọn khác nhau có thể giải được quyết vấn đề. Khi bắt đầu, không nên cố gắng đánh giá các sự lựa chọn hay tìm cách đi đến một giải pháp đơn độc. Mỗi bên nên có những gợi ý trong một lãnh vực động não nào đó. Có thể có những thay đổi mới mẻ được đề bạt sau một số giải pháp sáng tạo, và mỗi lựa chọn có thể được đánh giá.
Bước bốn: Nhấn mạnh trên tiêu chuẩn khách quan. Mâu thuẫn dường như ít xuất hiện, nếu như cả hai bên đồng ý sớm hơn về một phương cách khách quan để đạt đến một giải pháp. Nếu như cả hai bên đồng ý hành động theo đúng kết quả của việc tung hứng (để đoán bên nào đúng), việc phân xử của quan tòa, hoặc đánh giá phẩm chất của sự việc; kết quả cuối cùng sẽ không thể làm thỏa mãn công bằng cho cả hai bên, dầu mỗi người phải đồng ý trên giải pháp đó; bởi vì giải pháp này đã được quyết định bởi các phương pháp khách quan, công bằng, và được đôi bên chấp thuận.
Thỉnh thoảng sẽ cần thiết để chia các chủ đề lớn thành nhiều phần nhỏ hơn, để có thể giải quyết chúng cùng một lúc. Người tư vấn sẽ cố gắng hiểu cả đôi bên. Mặc dầu người tư vấn Cơ Đốc cố gắng ở thế khách quan, nhưng họ cũng sẽ bị thách thức với các quyết định không thuộc trong Kinh Thánh – ngay cả nếu như cả đôi bên đồng ý giải pháp đó – giải pháp này không thích hợp với những sự dạy dỗ của Thánh Kinh.
5.Dạy dỗ các kỹ năng giao tiếp.
Chỉ trích (khi một người có những nhận xét không thiên vị, không tử tế, tìm lỗi về người khác) đã “gây ra sự mất hạnh phúc hơn, làm tan vỡ nhiều cuộc hôn nhân hơn, làm hỏng con cái nhiều hơn, làm nản chí nhiều người hơn, và làm ngừng bất cứ tiến trình nào hơn bất kỳ vũ khí giết người nào khác.” Đây là ý kiến của một cố vấn Cơ Đốc có kinh nghiệm, ông đã nói điều này sau bốn mươi năm trong nghề, gần đây ông đã kết luận rằng: Vấn đề số 1 của những người được tư vấn là thiếu khả năng để đối diện với sự chỉ trích. Ông còn nói thêm rằng: Sự chỉ trích – mới đầu thấy đó là sai; nhưng về sau, với sự cay đắng và châm biếm – người ta gọi sự chỉ trích là sự chú ý của người khác.
Những người tấn công người khác bằng lời nói (có lẽ bao gồm hết thảy chúng ta) đang sử dụng lời nói để làm tổn thương và gây ra sự căng thẳng. Đối với một số người, sự chỉ trích xảy ra bởi vì họ thảo luận các chủ đề một cách chân thật và với một thái độ tôn trọng. Hết thảy chúng ta cần được nhắc nhở định kỳ về các quy tắc để có được sự giao tiếp hay sự thông công hiệu quả hơn. Một vài quy tắc này được nêu ra trong Bảng 16-2. Khi những hướng dẫn này liên tục được thực thi, sự giao tiếp và các mối quan hệ cá nhân sẽ có xu hướng trở nên trôi chảy và tốt đẹp, những sự khác biệt sẽ được thảo luận cách chân thật, sự chỉ trích mang tính phá hoại sẽ được tránh khỏi, và các mâu thuẫn có thể được giải quyết thỏa đáng.
Tuy nhiên, thường người ta chẳng bao giờ chịu học các quy tắc giao tiếp, chẳng bao giờ thực hành chúng, thường quên chúng, và thường thảo luận một cách gay gắt, hoặc lựa chọn để ném chúng ra một bên. Bởi đó, người tư vấn có trách nhiệm để (a) học tập những quy tắc này và các quy tắc tương tự, (b) thực hành chúng trong cuộc sống cá nhân của mình, (c) làm gương và nói về chúng với những người được tư vấn của mình, (d) chia sẻ chúng với những người được tư vấn, và (e) thảo luận làm sao để chúng được áp dụng trong các mối quan hệ cá nhân của những người được tư vấn.
Những Hướng dẫn trong Cách Đối Thoại*
1. Đôi lúc hành động “nói” hay hơn lời nói. Hành động có khi hàm ý mạnh hơn ngôn ngữ. Tránh nói và làm điều mâu thuẫn nhau.
2. Xác định điều nào là quan trọng và nhấn mạnh nó; xác định điều nào là thứ yếu và lướt qua. Tránh việc bới lông tìm vết, moi móc lỗi lầm.
3. Giao tiếp trong các phương cách thể hiện sự tôn trọng đối với giá trị của người khác, xem họ như là một con người. Tránh kiểu ngôn từ ra lịnh như “Anh/Chị không được phép làm điều này. . . .”
4. Nên rõ ràng và cụ thể trong cách diễn đạt ý tưởng. Tránh sự mơ hồ.
5. Nên thực tế và hữu lý trong lập luận của bạn. Tránh sự phóng đại và những ngôn từ kết án như “Anh/Chị cứ mãi . . .”
6. Kiểm tra tất cả những giả định của bạn bằng cách hỏi lại nếu như chúng chính xác. Tránh kết luận trước khi biết rõ ràng.
7. Hãy biết rằng mỗi sự việc đều có thể được xem xét dưới nhiều quan điểm khác nhau. Tránh giả sử rằng người khác cũng thấy được như bạn thấy.
8. Hãy nhớ rằng các thành viên trong gia đình và bạn thân của bạn là những người hiểu biết về các cư xử của bạn rất rõ. Tránh xu hướng từ chối những sự quan sát của họ về bạn – đặc biệt là nếu như bạn không chắc.
9. Hãy nhớ rằng bất đồng ý kiến cũng rất có ích lợi cho quan hệ đối thoại. Nhưng nên tránh loại thảo luận mang tính đả phá, tấn công nhau.
10. Nên thành thật và cởi mở về những cảm giác và những quan điểm của bạn. Nói ra tất cả các vấn đề có ý nghĩa ngay cả khi nếu như bạn e ngại để làm hoặc điều này sẽ làm phiền đến người khác. Nói ra sự thật trong tình yêu thương. Tránh tình trạng im lặng bế tắc.
11. Đừng hạ nhục, chà đạp hoặc áp đảo, khống chế người đối thoại bằng các kiểu cách như chế giễu, cắt ngang, đặt tục danh, chuyển đổi đề tài (đánh trống lãng), trách cứ, giận dữ, nói hành, châm biếm, chỉ trích, bĩu môi, nói khích xúi phạm lỗi… Tránh cái trò tôn mình làm tâm điểm của sự đối thoại.
12. Nên quan tâm nhiều về cách đối thoại của bạn tạo ảnh hưởng trên người khác hơn là về điều mà bạn đang dự tính. Tránh cảm xúc cay đắng nếu như bạn bị hiểu lầm.
13. Hãy chấp nhận tất cả mọi loại cảm giác và cố gắng hiểu tại sao người khác lại cảm thấy và hành động như thế. Tránh nói “Anh/Chị không nên cảm giác như thế.”
14. Nên lịch thiệp, ý tứ, và nhã nhặn. Tránh lợi dụng những cảm giác của người khác.
15. Đặt câu hỏi và cẩn thận lắng nghe trả lời. Tránh giảng đạo hoặc giảng thuyết.
16. Tránh biện minh cho mình. Cũng tránh vướng lẩn quẩn vào lời biện minh của đối tượng nữa.
17. Dùng ngôn từ văn hóa, lịch sự, và nhẹ nhàng. Tránh rầy rà, la lối, hoặc rên rỉ.
18. Sử dụng óc hài hước và sự nghiêm túc một cách thông minh, đúng lúc. Tránh lối đùa cợt mang tính hủy phá.
* Được chấp thuận với sự cho phép của Sven Wahlroos, Giao tiếp Gia đình (Family Communication): Hướng dẫn đối với Sức khỏe đầy Cảm xúc (A Guide to Emotional Health) – (New York: Signet-New American Library,1976).
Hãy xem lại lời hướng dẫn đầu tiên này: Hãy nhớ rằng hành động nói lớn hơn lời nói; sự giao tiếp không lời thường mạnh hơn sự giao tiếp bằng lời. Tránh những thông tin được cường điệu – có cả thông tin bằng lời và không lời – chứa đựng một điều gì đó ngược lại. Yêu cầu người được tư vấn suy nghĩ về một tình huống mâu thuẫn cụ thể gần đây nhất. Có bất kỳ ai đưa ra một thông tin nào ngược lại chăng? Điều này có thể tránh đi như thế nào – và có thể được tránh trong tương lai ra sao? Như là một người tư vấn, hãy xem những ví dụ về thông tin được cường điệu và chỉ chúng ra cho người được tư vấn biết. Có lẽ đây như là một nhiệm vụ bên ngoài của việc tư vấn, người được tư vấn nên tránh đi những thông tin được cường điệu. Thảo luận vấn đề này trong lần tư vấn sau đó.
Khả năng giao tiếp cách hiệu quả và không có khuynh hướng xúc phạm tình cảm người khác là một kỹ năng. Giống như tất cả các kỹ năng, kỹ năng này cần phải được học tập chậm rãi; và điều này mang lại qua kết quả của việc thực hành. Hướng dẫn giao tiếp được tóm tắt trong Bảng 16-2, cho thấy sự giao tiếp thực sự liên quan nhiều hơn việc sử dụng những kỹ thuật. Giao tiếp thực sự là loại giao tiếp làm ngưng sự căng thẳng cá nhân và xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, chỉ xảy ra khi có một sự vui vẻ chân thật để tôn trọng, chấp nhận, hiểu biết, và quan tâm đến những người khác. Những kỹ năng giao tiếp – chúng rất quan trọng, nhưng giá trị chúng bị giới hạn khi không có ý chí tốt và lòng chân thật ở trong những người giao tiếp.
6.Thay đổi môi trường.
Môi trường cũng góp phần vào sự căng thẳng cá nhân, do vậy, người tư vấn và người được tư vấn nên cố gắng thay đổi những điều kiện sản sinh căng thẳng. Bất kỳ khi nào có thể, nên tìm giải pháp để giải quyết mâu thuẫn trong một nơi im lặng, thoải mái, với sự ồn ào được giảm thiểu. Một vài người thích thảo luận những mâu thuẫn của họ trong tiệm ăn khi đang uống cà-phê. Điều này có thể là một nơi không bị đe dọa hay sợ hãi, có thể là nơi để thư giãn, nhưng ngược lại sẽ không đem lại kết quả tốt nếu nơi này có nhạc ồn ào làm xao lãng khách, có nhiều người tò mò lắng nghe chuyện bí mật của người khác, hoặc nơi có nhiều sự trang trí lòe loẹt. Môi trường tạo nên điểm khác biệt, ngay cả khi chúng ta đang tư vấn.
Nơi có những mâu thuẫn được thảo luận, ở đó có thể ít quan trọng hơn môi trường mà người ta sống. Không dễ dàng để làm giảm tiếng ồn trong khu hàng xóm, loại ra khỏi sự nghèo nàn và bạo lực trên đường phố, cải thiện được điều kiện làm việc, hoặc những sự không thoải mái khác cho thể xác. Vì thế, người tư vấn phải có một sự quan tâm nhiều hơn đối với tiến trình tư vấn. Người tư vấn phải cam kết trong việc loại bỏ các điều kiện về môi trường và về xã hội, nhằm giảm đi những kích thích và tạo sự leo thang cho những căng thẳng cá nhân. Mỗi người tư vấn phải quyết định ngữ cảnh nào liên quan đến.
NGĂN CHẶN CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN NGHÈO NÀN
Cơ Đốc giáo là một tôn giáo của các mối quan hệ. Đấng lập nên Đạo là Đức Chúa Trời của Tình Yêu Thương, và tình yêu thương là đặc tính phân biệt rõ nhất của Đạo. Đây không phải là một ảnh hưởng ủy mị, nhợt nhạt, nhưng là tình yêu thương đầy năng quyền, có sự hy sinh, và là tình yêu thương được ban tặng – liên quan đến các đặc tính được miêu tả trong I Cô-rinh-tô 13, phản chiếu tình yêu thương của Đức Chúa Trời, là Đấng đã sai Con Một của Ngài chịu chết thay cho loài người tội lỗi. Hội Thánh sẽ thất bại trong nhiệm vụ Ngài giao phó, nếu như Hội Thánh không rao giảng và thực hành tình yêu thương này – Tình yêu thương là trung tâm điểm của thông điệp Cơ Đốc. Bất cứ khi nào, thông điệp yêu thương cũng cần phải được rao giảng và thực hành; có như vậy thì những căng thẳng cá nhân sẽ được giảm bớt.
Đức Chúa Trời cũng ban một vài hướng dẫn cụ thể để thể hiện tình yêu thương của Ngài.( IGi 4:16-19; Gi 13:35) Nhiều lời khuyên được Ngài dạy dỗ và ghi lại trong Kinh Thánh; hơn thế nữa, Ngài cho chúng ta phát hiện thêm các quy tắc khác trong Thánh Kinh đối với việc làm quen, kết thân hay giao tiếp với những người khác cách hiệu quả. Các mối quan hệ cá nhân có thể được cải thiện, và nhiều căng thẳng cá nhân có thể được ngăn chặn khi người ta trong mọi độ tuổi đều được dạy dỗ và được khích lệ thực hành liên tục.
• Những sự dạy dỗ Kinh Thánh về các mối quan hệ tốt đẹp (cho thấy ở Bảng 16-1).
• Bước đi hàng ngày với Đức Chúa Jêsus Christ – là một bước đi mang đặc tính của sự cầu nguyện, suy gẫm Kinh Thánh, xưng tội, sẵn sàng tìm kiếm và vâng phục sự hướng dẫn thánh.
• Sự xét mình sẽ giúp chúng ta hướng đến sự thay đổi hay sự chuyển tiếp với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời; mọi sự được đổi thay bao gồm– sự cay đắng, hoài nghi, và những thái độ hoặc những hành động cá nhân khác có thể kích thích sự bất hòa hay chia rẻ.
• Sự hiểu biết về mâu thuẫn cùng sự thực hành những phương cách làm giảm thiểu đi những mâu thuẫn.
• Những hướng dẫn cho sự giao tiếp hiệu quả được liệt kê trong Bảng 16-2.
• Giảm bớt, lãng tránh, hoặc sự loại bỏ căng thẳng đi những môi trường sản sinh mâu thuẫn.
Đây là một nhiệm vụ quan trọng, người ta nên nhấn mạnh nhiều lần, đặc biệt là ở trong Hội Thánh. Khi các nhà lãnh đạo Cơ Đốc, bao gồm những người tư vấn, liên quan đến việc ngăn chặn sự căng thẳng cá nhân, thì họ đang giúp đỡ người khác sống trong sự bình an và sự hòa thuận với nhau, tránh mâu thuẫn mang tính phá hoại, và kinh nghiệm được sự bình an đến từ Đức Chúa Trời.
(II Côrinhtô:11; Phi 4:5-6)
NHỮNG KẾT LUẬN VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN
Con người là vật thọ tạo phức tạp với những cá tính riêng lẻ và ý chí mạnh mẽ. Chúng ta rất đông đúc trên hành tinh này, dân số quá nhiều; hết thảy chúng ta đều mang những bản tính tội lỗi, chúng ta dùng những bản tính tội lỗi để đối xử lẫn nhau và ngay cả đối với Đức Chúa Trời. Nhiều người trong chúng ta muốn làm quen hay kết thân với những người khác, nhưng điều này không dễ dàng chút nào.
Có lẽ Sứ-đồ Phao-lô đã suy nghĩ về vấn đề này khi ông viết những lời hướng dẫn trực tiếp mà ông nhận được: “Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người.” (Ro 12:18) Những lời nói này cũng đã được viết ra vào cuối một vài đoạn của các sách ông viết, nhằm đem lại những giải pháp, những quy tắc thực tiễn đối với việc kết thân: hãy yêu thương nhau cách thành thật, đối xử và tôn trọng nhau trong tình yêu thương anh em, tôn trọng những người lớn hơn, chia sẻ cho nhau, tiếp đãi nhau, sống với nhau trong sự hòa thuận, sẵn sàng hợp tác với những người khác không cùng địa vị, không gian dối, chớ lấy ác trả ác, phải chăm tìm đều thiện trước mặt mọi người.
Chắc chắn rằng điều này rất thú vị – cách hướng dẫn để sống trong sự bình an được nói đến trước với hai đặc điểm: “Nếu có thể được” và “thì hãy hết sức mình.” Điểm đầu tiên ám chỉ – thỉnh thoảng không thể sống trong sự hòa thuận với nhau được. Ngay cả nếu có thể được, thì mỗi người đều phải có trách nhiệm đối với những thái độ và cách cư xử riêng của mình. Mỗi chúng ta cần phải hết sức mình sống trong sự bình an. Với sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh, những cố vấn Cơ Đốc hãy gắng sức xây dựng sự bình an như thế, và ngăn chặn những sự căng thẳng từ những đặc điểm quan hệ cá nhân đem lại.
Christian Counseling- Gary R]. Collins
CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM
Bolton, Robert. People Skills: How to Assert Yourself, Listen to Others, and Resolve Conflicts. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall,1979.
Bramson, Robert M. Coping with Difficult People in Business and in Life. New York: Ballantine,1981.*
Diehm, William J. Criticizing. Minneapolis: Augsburg,1986.*
Egan, Gerard. You and Me: The Skills of Communicating and Relating to Others. Monterey, Calif.: Brooks/Cole,1977.
Fenton, Horace L., Jr. When Christians Clash: How to Prevent and Resolve the Pain of Conflict. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1987.*
Fisher, Roger, and William Ury. Getting to Yes: Negotiating without Giving In. New York: Penguin,1981.
riffin, Em. Making Friends and Making Them Count. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1987.*
Huggett, Joyce. Creative Conflict: How to Confront and Stay Friends. Downers Grove, Ill.: InterVarsity,1984.*
* Books marked with an asterisk (*) are especially suited for counselees to read.